Một vài khía cạnh trong diễn trình của Phật giáo trên đất Việt trước thế kỷ XX
Phật giáo ra đời từ thế kỷ VI (TCN) ở Ấn Độ và là một trong những tôn giáo
lớn của thế giới. Người Việt từ đầu Công nguyên đã được tiếp xúc với Phật giáo. Từ đó đến
nay, dù lúc thăng, lúc trầm, Phật giáo đã tác động khá rõ nét tới tư tưởng, tâm hồn của các
tầng lớp xã hội Việt và để lại nhiều dấu ấn trong lịch sử, văn hóa Việt Nam. Bài viết bàn về
một vài khía cạnh trong diễn trình của Phật giáo trên đất Việt trước thế kỷ XX có liên quan
đến những vấn đề then chốt của tư tưởng xã hội qua từng thời kỳ lịch sử, từ đó góp phần làm
sáng rõ hơn một số nội dung thuộc về bản sắc văn hóa dân tộc Việt.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Bạn đang xem tài liệu "Một vài khía cạnh trong diễn trình của Phật giáo trên đất Việt trước thế kỷ XX", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Một vài khía cạnh trong diễn trình của Phật giáo trên đất Việt trước thế kỷ XX
hần linh này đã được Phật giáo hóa. Một Phật phái khác thuộc dòng Vô Ngôn Thông vào đất Việt đầu thế kỷ IX2. Phật phái này có vẻ như đi sâu vào nghĩa cứu cánh của Phật pháp, song chủ trương thuyết “đốn ngộ”, cho rằng con người có thể đạt được giác ngộ trong một thời gian ngắn bằng cách tu trì đặc biệt. Phái này chịu ảnh hưởng của tông Tịnh Độ để mặt nào đó tìm về lẽ huyền vi của đạo, nó ít phổ cập được đến quần chúng, vì lối tu “tâm tưởng”, có màu "xuất thế gian". Tuy nhiên, nếu quả thực tự nhà sư tên là Vô Ngôn Thông (thông hiểu và tu theo lối “nói các lời không nói”), thì chính ông đã chấp vào cái vô ngôn. Nhưng cũng có thể tên ông là do người đời sau đặt cho, bởi từ lối tu quán bích (day mặt vào tường, nhìn vào một điểm để tập trung tư tưởng), lặng im suy ngẫm về lẽ đạo mà tìm tới Diệu Tâm Chân Như3 thì ông đã là một hiện thân đáng tôn sùng của một số trí thức Phật giáo. Hiện nay, phái Vô Ngôn Thông chỉ còn để lại cho chúng ta một mảnh lịch sử gắn với chùa Kiến Sơ (Gia Lâm - Hà Nội), vài dòng trên sách vở và niềm hoài niệm man mác trong một số nhà tu hành uyên bác. Chắc rằng, ở đương thời, tuy 2 Vô Ngôn Thông (759? - 826), là một vị Thiền sư Trung Quốc, đệ tử của Thiền sư nổi tiếng Bách Trượng Hoài Hải. Năm 820, ông qua Việt Nam, ở tại chùa Kiến Sơ (nay thuộc Gia Lâm - Hà Nội), thành lập phái thiền Vô Ngôn Thông. Nhà sư mất năm 826, và phái thiền này kéo dài được 17 thế hệ. 3 Diệu tâm chân như: (Diệu tâm: cái tâm tinh tế trong sạch nhiệm màu không vướng vào phiền não; Chân như: chân thật, không biến đổi, Phật tính). Diệu tâm chân như là Phật tâm với lòng đại từ bi trí tuệ hơn hết, giác ngộ hơn hết. 30 NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI nó có một hệ thống truyền thừa, nhưng ảnh hưởng của phái này với xã hội Việt chắc là chưa được sâu đậm. Vì thế nó cũng ít chi phối tới tạo hình như ở một số phái khác. Một Phật phái thứ ba đáng quan tâm đã được hình thành vào đầu thời tự chủ, đó là phái Thảo Đường4. Phái này không chỉ tập trung vào tìm diệu pháp trường tồn, mà mặt nào đó chủ trương phải vì thế tục, vì sự ổn định và phát triển của xã hội đường thời. Nét đáng quan tâm của nó là hoằng dương Phật pháp trong giới trí thức Nho học, để đem nhà Nho đến với Phật đài. Có nghĩa, ngay từ khi giành được độc lập, giới cầm quyền đã sớm thấy Phật giáo tuy rất có ưu thế trong tâm trí dân chúng, nhưng với đặc tính từ bi và thoát tục, nó khó hội được các điều kiện cần và đủ để tổ chức một xã hội hoàn chỉnh, đủ sức đương đầu với những biến cố lịch sử và hoàn cảnh xã hội đương thời. Cho nên, mặc dù nhà Lý được nhiều nhà sư trí thức thuộc dòng Tỳ Ni ủng hộ, nhưng họ đã sớm phải lập ra một thiền phái khác, để vừa dung hòa được với xu thế thượng trí của Phật giáo vừa sử dụng được khả năng tổ chức xã hội của các nhà Nho. Biểu hiện cụ thể là trong 19 người thuộc sáu thế hệ của phái này chỉ có mười người xuất gia, còn chín người khác là vua quan đương nhiệm (chính Lý Thánh Tông là thế hệ thứ hai của phái này). Ở mặt kiến trúc, có thể nghĩ, các đại danh lam đương thời là thuộc về phái Thảo Đường, và, do từ đặc tính của phái này mà một số kiến trúc phi Phật cũng được nhà nước bảo hộ để nảy sinh và tồn tại, điển hình như Văn Miếu. Sự quan tâm tới Nho giáo để xây dựng chính quyền quân chủ chuyên chế khiến cho tầng lớp Nho sĩ ngày một phát triển, tiến tới chỗ họ loại dần tầng lớp trí thức Phật giáo ra khỏi chính trường. Một trớ trêu của lịch sử là, khi một bộ phận Nho sĩ đã có chân đứng vững chắc về địa vị xã hội, thì một số người đã nảy sinh ý thức tiêu cực nặng nề. Họ ra sức bài bác Phật giáo, coi thường văn hóa dân tộc, hầu như họ muốn coi văn hóa nghệ thuật ở quê hương của Nho giáo là một mẫu mực cần noi theo. Xu hướng này đã tác động “xấu” tới nhiều mặt của xã hội, khiến cho chính tầng lớp "quý tộc" cao cấp thời Trần cũng phải phản ứng lại. Sự phản ứng này phần nào đã đồng nhất với tinh thần dân tộc độc lập. Trong gần ngàn năm tự chủ ở thiên niên kỷ thứ hai, hệ thống tư tưởng chính thống của xã hội Việt cơ bản chỉ thay đổi giữa Phật và Nho. Khi lòng tin vào Nho giáo và đạo đức của nó bị khủng hoảng hay phát triển lệch đường thì bao giờ Phật giáo cũng được cầu viện tới để làm cân bằng cho tinh thần xã hội. Đặc tính này như một tiền đề cho việc nảy sinh ra Phật phái Trúc Lâm ở thời Trần (thế kỷ XIII - XIV). Mặt khác, có thể nghĩ rằng, dưới thời Bắc thuộc và thời Lý, nhiều Phật phái đã du nhập vào đất nước ta, trong đó chắc chắn có Tịnh Độ tông, song phái này như còn khó có thể phát triển khi xu hướng của xã hội đang cần củng cố để khẳng định vấn đề tồn tại dân tộc. Nhưng, tới thời Trần thì hoàn cảnh đã có nhiều thay đổi, vai trò của những trí thức tu theo Phật giáo bị trả về với “môi trường” của họ trong khi ngôi chùa ít nhiều đã bị một số kiếp tu tha hóa lợi dụng. Hội mọi điều kiện lại khiến Phật giáo dưới thời Trần đã có bước chuyển hướng, nhiều người trong tầng lớp quý tộc Trần đã tìm tới cửa Tịnh Độ tông (một tông phái có thể đã tồn tại trên đất Việt từ trước) lấy A Di Đà làm trung tâm sinh hoạt tâm linh. Trong đó, một người điển hình về sự uyên thâm Phật pháp là Tuệ Trung Thượng Sĩ, ông đã thể hiện cái sâu lắng bên trong tâm mình bằng các câu thơ sau: 4 Thảo Đường: Một nhà sư Trung Hoa thuộc dòng của Tuyết Dậu và Vân Môn. Dòng này chủ trương đem nhà Nho tới Phật đài. Thảo Đường truyền đạo ở Chăm Pa, bị nhà Lý bắt làm tù binh (qua chiến tranh với Chăm Pa). Sau được phát hiện, vua Lý Thành Tông rất quý và tôn sùng rồi trở thành thế hệ thứ nhất của phái Thảo Đường. 31 NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI Tâm nội Di Đà tử ma khu, Đông Tây Nam Bắc pháp thân chu Trường không chỉ kiến cô luân nguyệt, sát hải trừng trừng dạ mạn thu. (Di Đà vốn thực pháp thân ta, Nam Bắc Đông Tây khắp chói lòa Trăng thu ngự giữa trời cao rộng, đêm lặng trùng dương rạng chiếu xa)5. Tuệ Trung đề cao sự giác ngộ, chú trọng kiến tính. Ở ông, một tính chất nổi lên rõ rệt là: vô chấp6, không phân biệt ngã nhân với tha nhân, với ông thì “Niết Bàn vô trụ xứ”. Sự hình thành Phật phái Trúc Lâm trước hết là một nhu cầu của xã hội đương thời, nó chống lại sự "nô dịch" của văn hóa phương Bắc, mặc nhiên nó trở nên đậm tính dân tộc, để là một nền tảng thuộc cá tính Việt. Buổi đầu với xu hướng tiến bộ như vậy cộng với sự ưu đãi của triều đình nên Phật phái này phát triển rất mạnh. Song, mặc dù những người tiền bối/thân của Phật phái Trúc Lâm đã từng chủ trương sống trong lòng thế tục, hòa ánh sáng Phật pháp vào cuộc đời bụi bặm... nhưng, chính Trúc Lâm Đệ Nhất Tổ đã kêu gọi xóa bỏ các ngôi đền dân dã, để làm trong sạch Phật giáo, không muốn dung hòa với tín ngưỡng địa phương. Mặt khác, khi sự bảo trợ của triều đình không được thường xuyên nữa, thì mặc nhiên phái Trúc Lâm cũng bị tàn phai dần. Rõ ràng, phái này chỉ nổi lên với vài ba vị tổ cùng sống một thời, những nhà sư kế tục ít được nhắc tới, khiến cho gần 500 năm sau Ngô Thời Nhậm đã tự xưng là Trúc Lâm Đệ Tứ Tổ. Tuy nhiên, chúng ta có thể nghĩ rằng, với Trúc Lâm, tính chất triết học của Phật giáo ở đất Việt được đẩy mạnh hơn một bước. Trên phạm vi của kiến trúc Phật giáo, rõ ràng còn nhiều ngôi chùa thời Lý mang nặng nét cầu xin, ước vọng (như: Phật Tích, Vạn Phúc, Diên Hựu, Báo Ân...), thì dưới thời Trần, phần nào ý nghĩa một số tên chùa đã thay đổi (như: Đại Bi, Phổ Minh, Thanh Mai, Sùng Quang...). Một đặc điểm khác là: Ngay ngôi chùa của triều đình cũng không còn kiêm hành cung nữa và chùa làng cũng được làm bằng chất liệu bền vững hơn, nên tới nay vẫn còn để lại cho chúng ta nhiều dấu tích cụ thể. Vào thế kỷ XV, ở nước ta, Nho giáo đạt tới đỉnh cao của nó, chính quyền chuyên chế có chủ trương hạn chế Phật và Đạo, khiến cho dấu tích kiến trúc dân dã khó tìm được. Nhưng, sang thế kỉ XVI - thời Mạc, chúng ta đã gặp khá nhiều chùa và tượng Phật, Bồ Tát... Hiện tượng này như một sự “phục hưng” của Phật giáo gắn với một bước “sang trang” mạnh mẽ hơn của văn hóa cung đình, chuyển sang đậm hơn yếu tố dân gian. Nhiều phụ nữ trong triều đình đã có công lớn với chùa. Song, vào giai đoạn này chưa thấy nổi lên những tông phái cụ thể nào, có lẽ vì nhà Mạc đã bị các triều đại sau xếp là ngụy triều, nên các vấn đề văn hóa lịch sử xã hội của thời đó ít được ghi chép lại đầy đủ. Dù vậy, bằng vào những hiện vật gắn với Phật giáo của đương thời, chúng ta vẫn thấy bóng dáng của dòng Phật giáo phương Bắc đã thâm nhập vào nước ta một cách mạnh hơn. Trong một chừng mực nào đó, có thể nói rằng Phật giáo suy thoái từ cuối thời Trần, bị hạn chế vào thời Hồ Quý Ly và đặc biệt trong thời Lê sơ (thế kỉ XV), dưới góc độ tư tưởng chính thống nó bị lu mờ trước Nho giáo. Vì thế, có thể nghĩ Phật giáo đã được phục hồi phần nào dưới thời Mạc, kéo nền nghệ thuật tạo hình tương ứng chuyển sang một bước phát triển mới, như tạo tiền đề cho sự đa dạng hóa của Phật điện từ thế kỷ XVII về sau. Rõ ràng, sự khủng hoảng trầm trọng của lòng tin vào Nho giáo, được biểu hiện bằng cuộc chiến tranh Nam - Bắc triều, Trịnh - Nguyễn phân tranh, đã tàn phá đất nước, 5 Theo Nguyễn Lang, Việt Nam phật giáo sử luận, Nxb Lá Bối, Paris 1977. 6 Vô chấp: Không lệ thuộc vào bất kể một điều kiện, sự việc nào. 32 NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI cũng tạo điều kiện xô đẩy con người trở lại mạnh hơn với Phật giáo. Đó là điều kiện để các tông phái như Lâm Tế và Tào Động được du nhập sâu hơn vào xã hội Việt7. Tuy nhiên, ở đương thời và sau này thì sự phân biệt giữa các tông phái không được rành mạch lắm. Dù vậy, nó vẫn là nền tảng của những ngôi chùa kiểu "trăm gian", với sự tham gia tích cực của tầng lớp trên. Nổi lên trong phái Lâm Tế là thiền sư Liễu Quán, Nguyên Thiều... Các vị này đã tạo cho Phật giáo Việt ở Đàng Trong (trước đó nặng yếu tố Trung Hoa) chuyển mạnh hơn sang màu sắc dân tộc. Còn phái Tào Động với trụ cột là nguyên tắc năm địa vị giữa cái Tuyệt Đối (Thẳng) và Tương Đối (Nghiêng). Thẳng và Nghiêng không phải khác nhau, mà thực chất là mối quan hệ đối đãi. Thẳng là cái "không" (bản thể) chân thực, Nghiêng là “diệu hữu”. Tông Tào Động còn bàn tới năm địa vị của vua - tôi, lấy ngồi thiền làm trọng tâm (chỉ quán đà tọa), nổi lên ở đất Bắc là tổ Thủy Nguyệt. Với đặc tính này, Tào Động phần nào đã phù hợp với nhu cầu cần củng cố của chế độ quân chủ chuyên chế đương thời. Cuối thể kỉ XVII, Phật giáo cũng không đủ sức cứu vớt được sự khủng hoảng xã hội, người dân thôn dã ít tập trung vào chùa mà dồn sức đẩy ngôi đình lên tới địa vị vàng son, trở thành trung tâm văn hóa của làng xã. Sang thế kỷ XVIII, mặc dù đây đó vẫn có một số chùa mới được dựng, nhưng phải tới cuối thế kỷ, dưới thời Tây Sơn, phần nào Phật giáo mới như được đề cao trong sự ủng hộ của nhiều trí thức Nho học và một số quan lại tân triều, từ đó tạo điều kiện cho một số chùa đặc biệt ra đời (chùa Kim Liên, chùa Tây Phương) Sang thế kỷ XIX, dưới triều Nguyễn, về mặt tinh thần, ít nhiều Phật giáo được triều đình nâng đỡ8. Đồng thời, chính sách đầu thời Nguyễn vẫn chưa tỏ ra khắt khe lắm, xã hội khá ổn định. Vì thế, đình chùa ở khoảng đầu thế kỷ XIX đã được làm lại khá khang trang, nhất là các chốn tổ (nơi tụ hội các nhà sư trong dịp kết hạ). Điển hình có thể kể tới chùa Đức La (chốn tổ gốc của Thiền phái Trúc Lâm, ở huyện Yên Dũng, tỉnh Bắc Giang), chùa Bổ (nay đã sửa lại gần như hoàn toàn, ở huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang), chùa Thiên Mụ (Huế) và nhiều chùa khác nữa. Ngoài một số chùa được sự bảo trợ của triều đình, thì nhiều chùa khác được làm lại với sự đóng góp của dân, dưới sự chủ trì của một số tổ chức nào đó trong làng hay do một người có chức vị, hoặc do chính nhà sư trụ trì của cảnh chùa. Khoảng từ giữa thế kỷ XIX, nền kinh tế tư nhân phát triển mạnh hơn, tầng lớp thương nhân quyên cúng nhiều cho chùa, với ý nghĩa như một khoán ước. Các nhà sư vì thế có kinh phí mở rộng chùa và tạc tượng. Từ đây, tượng trong các chùa đông dần hẳn lên, đôi khi có cả tượng theo tích riêng của từng nơi (như chùa Hoè Nhai - Hà Nội). Tình hình như nêu trên cùng sự khủng hoảng lòng tin vào hệ tư tưởng chính thống của xã hội, từ nửa cuối thế kỷ, đã thúc đẩy cho tín ngưỡng dân gian và mặt nào là mê tín dị đoan có điều kiện phát triển mạnh hơn. Cửa chùa không chỉ là chốn tu tâm, mà còn là nơi "đồng cô bóng cậu". Nhà sư đôi khi vì lợi đã mải mê việc Thánh hơn việc Phật. Rồi ngay trong cảnh chùa, điện Mẫu được lâp nhiều hơn, trở thành nơi cúng bái "sầm uất" dưới bóng áo cà sa. Phật và Thánh được nhập lại để trở thành một tập thể thần 7 Tông Lâm Tế và Tông Tào Động đều xuất phát từ Thiền Tông ở Trung Quốc do Lục Tổ Huệ Năng lãnh đạo, thịnh hành ở phía Nam, truyền mạnh vào đất Việt trong thế kỉ XVII, Tông Lâm Tế phát triến mạnh ở Đàng Trong (Nam) còn Tông Tào Động phát triển mạnh ở Đàng Ngoài (Bắc). Khi vào Việt Nam, sự khác biệt giữa hai tông chỉ còn rất ít. 8 Các chúa Nguyễn tin sùng Phật giáo, muốn dựa vào Phật giáo để củng cố chính quyền. Thời Vua Gia Long phần nào đề cao Nho, nên hạn chế Phật, nhưng thời Minh Mệnh thì Phật giáo được ủng hộ. 33 NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI linh đem tha lực cứu vớt con người theo cách "tốt lễ dễ kêu". Điển hình như ở chùa Kim Liên (Hà Nội) trước đây. Vào những năm 30 của thế kỷ XX, một phong trào chấn hưng Phật giáo trong xã hội Việt được khơi dậy. Tất nhiên, xu thế của đương thời khiến phong trào này khó tránh khỏi va vấp vào vấn đề thời cuộc và nhiều khó khăn. Suy cho cùng, bước đi của Phật giáo trên đất Việt và hoàn cảnh lịch sử chung đã chi phối tới bước đi của ngôi chùa Việt. Ngược lại, chính ngôi chùa Việt nhiều khi đã bước ra ngoài phạm trù Phật đạo để phản ánh rõ nét về một số vấn đề của lịch sử và xã hội. Ngôi chùa Việt đã có bước đi riêng của nó. Là một loại di tích có mặt hầu hết trong các giai đoạn lịch sử của dân tộc, nó là đối tượng quan trọng của nhiều ngành nghiên cứu. Với ngôi chùa, ít nhiều chúng ta có thể đọc lên được sự thăng trầm của một số sự kiện lịch sử, qua đó góp phần nhìn nhận chân xác hơn về nhiều vấn đề thuộc bản sắc văn hóa dân tộc. SOME ASPECTS OF THE DEVELOPMENT PROCESS OF BUDDHISM IN VIETNAM BEFORE THE 20TH CENTURY Tran Lam Bien Abstract: Buddhism was born in the sixth century (before Christ) in India and is one of the great religions of the world. Before Christ, the Vietnamese were exposed to Buddhism. Since then, through many ups and downs, Buddhism has made quite a clear impact on the thoughts and souls of Vietnamese social strata and left many imprints in Vietnam's history and culture. The article discusses several aspects of the Buddhism development process in Vietnam before the 20th century related to the key issues of social thought through each historical period, thereby contributing to further clarify some aspects of Vietnamese national cultural identity Keywords: Buddhism; development process; Vietnam. Người phản biện: PGS. TS Trần Văn Thức (ngày nhận bài 28/8/2019; ngày gửi phản biện 29/8/2019; ngày duyệt đăng 30/9/2019). 34
File đính kèm:
- mot_vai_khia_canh_trong_dien_trinh_cua_phat_giao_tren_dat_vi.pdf