Một số kết quả về nghiên cứu bệnh hoại tử gan tụy cấp tính trên tôm nuôi ở đồng bằng sông Cửu Long và biện pháp kiểm soát

TÓM TẮT

Nghiên cứu này được thực hiện nhằm xác định diễn biến của bệnh hoại tử gan tụy trên tôm nuôi

trong ao và phòng thí nghiệm và đề xuất một số giải pháp hạn chế bệnh hoại tử gan tụy cấp tính.

51 mẫu tôm thu theo định kỳ 10 ngày/lần và 35 mẫu thu lúc dịch bệnh được kiểm tra bằng phương

pháp mô bệnh học. Dấu hiệu hoại tử gan tụy xuất hiện sớm nhất ở ngày thứ 17 và muộn nhất vào

ngày thứ 77 sau khi thả tôm vào ao nuôi. Tần suất xuất hiện hoại tử cao nhất được ghi nhận từ 20-

45 ngày. Tôm chết tập trung ở giai đoạn 19-31 ngày tuổi. Tất cả mẫu thu từ ao có tôm chết đều ghi

nhận dấu hiệu hoại tử gan tụy khá cao và phải thu hoạch sớm ngay sau khi phát hiện hoại tử 2-3

ngày. Điều đáng ghi nhận là tỷ lệ hoại tử biến động lớn giữa các ao (từ 9-90%). Điều này cho thấy

mức độ nguy hiểm của hội chứng gan tụy mặc dù khi chỉ phát hiện tỷ lệ hoại tử thấp. Tất cả các ao

ghi nhận có dấu hiệu hoại tử đều phải thu hoạch sớm. Tôm từ ao nuôi bị nhiễm AHPND ở mức độ

nhẹ chyển về phòng thí nghiệm có tỷ lệ chết không đáng kể sau 1 tháng nuôi. Việc tầm soát Vibrio

sp. và V. parahaemolyticus hiện diện trong nước và tôm nuôi trong ao được xem là khá quan trọng

làm cơ sở cho người nuôi có biện pháp giải quyết.

Một số kết quả về nghiên cứu bệnh hoại tử gan tụy cấp tính trên tôm nuôi ở đồng bằng sông Cửu Long và biện pháp kiểm soát trang 1

Trang 1

Một số kết quả về nghiên cứu bệnh hoại tử gan tụy cấp tính trên tôm nuôi ở đồng bằng sông Cửu Long và biện pháp kiểm soát trang 2

Trang 2

Một số kết quả về nghiên cứu bệnh hoại tử gan tụy cấp tính trên tôm nuôi ở đồng bằng sông Cửu Long và biện pháp kiểm soát trang 3

Trang 3

Một số kết quả về nghiên cứu bệnh hoại tử gan tụy cấp tính trên tôm nuôi ở đồng bằng sông Cửu Long và biện pháp kiểm soát trang 4

Trang 4

Một số kết quả về nghiên cứu bệnh hoại tử gan tụy cấp tính trên tôm nuôi ở đồng bằng sông Cửu Long và biện pháp kiểm soát trang 5

Trang 5

Một số kết quả về nghiên cứu bệnh hoại tử gan tụy cấp tính trên tôm nuôi ở đồng bằng sông Cửu Long và biện pháp kiểm soát trang 6

Trang 6

Một số kết quả về nghiên cứu bệnh hoại tử gan tụy cấp tính trên tôm nuôi ở đồng bằng sông Cửu Long và biện pháp kiểm soát trang 7

Trang 7

Một số kết quả về nghiên cứu bệnh hoại tử gan tụy cấp tính trên tôm nuôi ở đồng bằng sông Cửu Long và biện pháp kiểm soát trang 8

Trang 8

Một số kết quả về nghiên cứu bệnh hoại tử gan tụy cấp tính trên tôm nuôi ở đồng bằng sông Cửu Long và biện pháp kiểm soát trang 9

Trang 9

Một số kết quả về nghiên cứu bệnh hoại tử gan tụy cấp tính trên tôm nuôi ở đồng bằng sông Cửu Long và biện pháp kiểm soát trang 10

Trang 10

pdf 10 trang xuanhieu 19880
Bạn đang xem tài liệu "Một số kết quả về nghiên cứu bệnh hoại tử gan tụy cấp tính trên tôm nuôi ở đồng bằng sông Cửu Long và biện pháp kiểm soát", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Một số kết quả về nghiên cứu bệnh hoại tử gan tụy cấp tính trên tôm nuôi ở đồng bằng sông Cửu Long và biện pháp kiểm soát

Một số kết quả về nghiên cứu bệnh hoại tử gan tụy cấp tính trên tôm nuôi ở đồng bằng sông Cửu Long và biện pháp kiểm soát
 mẫu). Thời 
gian xuất hiện hoại tử từ 16-38 ngày tuổi. 
Tất cả các ao này đều phải thu hoạch sau 
2-3 ngày phát hiện có hoại tử gan tụy (đồ 
thị 2). Qua khảo sát cho thấy đây là giai 
đoạn tập trung nhiều tôm chết nhất do 
AHPND. 
Đồ thị 2. Kết quả mô học khảo sát hoại tử gan tuỵ trên các mẫu tôm bệnh
Đối với nhóm tôm chết kéo dài có tỷ lệ hoại tử thấp hơn tôm chết tại thời điểm thu mẫu (đồ thị 3).
Đồ thị 3. Kết quả mô học xác định tỷ lệ hoại tử gan tuỵ trên nhóm tôm chết kéo dài hoặc có dấu 
hiệu hồi phục
77TAÏP CHÍ NGHEÀ CAÙ SOÂNG CÖÛU LONG - 4 - THAÙNG 10/2014
VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN 2
3.2. Kết quả nghiên cứu khả năng hồi 
phục của bệnh hoại tử gan tuỵ cấp tính
Mục đích của nghiên cứu này là nhằm xác 
định khả năng hồi phục của tôm bệnh khi được 
chuyển từ ao nuôi về phòng thí nghiệm.
Kết quả thu mẫu phân tích mô bệnh tại thời 
điểm chuyển mẫu về PTN cho thấy nguồn tôm 
không nhiễm MBV (Monodon Baculovirus), 
HPV (Hepatopancreas Parvoirus), YHCV 
(Yellow Head Complex Virus) và WSSV (White 
Spot Syndrome Virus). Ao1, 2, 3 & 4 có dấu 
hiệu hoại tử gan tụy đặc trưng với tỷ lệ lần lượt 
là 10, 12, 89 và 32%.
Kết quả theo dõi trong phòng thí nghiệm 
trong vòng 25 ngày cho thấy tôm chết chủ yếu 
tập trung ở 3 ngày đầu sau khi chuyển về phòng 
thí nghiệm với nguyên nhân chính là do sốc 
trong quá trình vận chuyển.
Ao 1 (240 con) Ao 2 (240 con) Ao 3 (240 con) Ao 4 (120 con)
Đồ thị 4. Số cá thể chết ở mỗi nghiệm thức theo thời gian nuôi
Một số thông tin liên quan đến các ao nuôi 
như sau:
Ao 1: Xét nghiệm mẫu ở ngày nuôi thứ 18 
có hoại tử gan tụy, ao ngừng nuôi vào ngày nuôi 
thứ 22. Tôm được chuyển từ ao về phòng thí 
nghiệm vào ngày nuôi thứ 18 cho thấy tôm vẫn 
khỏe sau 25 ngày nuôi, tỷ lệ chết không đáng 
kể (< 5%).
Ao 2: Đến ngày nuôi thứ 9 tôm có dấu hiệu 
đặc trưng hoại tử gan nhẹ tại ao nuôi và mô 
bệnh học cho thấy bị hoại tử gan tụy và chết 
4 ngày sau đó. Giống như tôm ở ao 1, đàn tôm 
ở ngày nuôi thứ 9 được chuyển về phòng thí 
nghiệm cho tỷ lệ chết không đáng kể trong quá 
trình chăm sóc.
Ao 3: Kết quả theo dõi mô bệnh học liên 
tục trong 3 tuần đầu cho thấy tôm không bị hoại 
tử gan tụy và chỉ phát hiện có dấu hiệu mô bệnh 
học hoại tử gan tụy đặc trưng là 89% vào ngày 
nuôi thứ 27 (ngày ngừng nuôi tại ao). Kết quả 
theo dõi tôm nuôi trong phòng thí nghiệm cho 
thấy chết rất nhiều ở 3 ngày đầu tiên (70%) sau 
đó giảm chết (đồ thị 4).
Ao 4: Kết quả theo dõi mô bệnh học liên 
tục trong 3 tuần đầu cho thấy tôm không bị 
hoại tử gan tụy. Ao này bị phát hiện có dấu 
hiệu mô bệnh học hoại tử gan tụy đặc trưng là 
32% vào ngày nuôi thứ 27. Giống như ao 3, 
tôm chuyển về phòng thí nghiệm chết nhiều ở 
3 ngày đầu tiên.
78 TAÏP CHÍ NGHEÀ CAÙ SOÂNG CÖÛU LONG - 4 - THAÙNG 10/2014
VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN 2
Tất cả 4 ao nuôi tôm đều chết vì bị hoại tử 
gan tụy cấp tính.
3.3. Kết quả theo dõi bệnh hoại tử gan 
tụy cấp tính đối với tôm nuôi trong phòng thí 
nghiệm và ngoài ao
Mục đích của thí nghiệm này là theo dõi 
bệnh hoại tử gan tụy cấp tính trên cùng một 
nguồn tôm được nuôi song song trong ao và 
trong bể kính.
Tôm nuôi được vận chuyển sống từ 2 ao 
tôm (Ao1&2) tại huyện Trần Đề, tỉnh Sóc Trăng 
về phòng thí nghiệm và nuôi trong bể kính. Số 
tôm bắt từ ao 1 là 125 con, tôm từ ao 2 có tổng 
số 175 con.
Đối với tôm nuôi tại ao: Theo dõi và thu 
mẫu tôm định kỳ 7 ngày/lần để xem diễn biến 
của bệnh hoại tử gan tụy bằng phân tích mô học. 
Kết quả phân tích mô bệnh học trên mẫu 
thu định kỳ (Bảng 1) cho thấy nguồn mẫu thu 
định kỳ đều không nhiễm MBV, HPV, YHCV 
và WSSV, tất cả các mẫu thu định kỳ đều không 
có dấu hiệu hoại tử gan tụy đến tuần thứ 5. Tuy 
nhiên, mẫu thu định kỳ tuần 7 trên ao Ao 2 có 
hoại tử gan tụy phải thu hoạch. Ao 1 mặc dù 
không phát hiện hoại tử gan tụy ở tuần thứ 5 
nhưng ở tuần thứ 6 tôm chết do hoại tử gan tụy 
phải thu hoạch. Điều này cho thấy diễn tiến của 
bệnh hoại tử gan tụy cấp tính là rất nhanh.
Bảng 1. Kết quả phân tích mô bệnh học thu mẫu định kỳ tại ao nuôi
Tuần thu mẫu Kết quả phân tích mô học
Ao1 MBV HPV WSSV YHCV KST HT1 HT2
Tuần 1 (-) (-) (-) (-) (-) (-) (-)
Tuần 2 (-) (-) (-) (-) (+) (-) (-)
Tuần 3 (-) (-) (+) (-) (+) (-) (-)
Tuần 4 (-) (-) (-) (-) (+) (-) (-)
Tuần 5 (-) (-) (-) (-) (+) (-) (-)
Ao2
Tuần 2 (-) (-) (-) (+) (-) (-) (-)
Tuần 3 (-) (-) (-) (-) (+) (-) (-)
Tuần 4 (-) (-) (-) (-) (+) (-) (-)
Tuần 5 (-) (-) (-) (-) (+) (-) (-)
Tuần 6 (-) (-) (-) (-) (+) (-) (-)
Tuần 7 (+) (-) (-) (-) (+) (+) (+)
KST: ký sinh trùng; HT1: Hoại tử 1: bong tróc tế bào gan tụy; HT2: Hoại tử 2: có sự xuất 
hiện của các thể granuloma
Đối với tôm nuôi trong bể kính: Theo dõi 
và thu mẫu định kỳ mỗi tuần 1 lần (3 cá thể/
nghiệm thức) và thu mẫu cá thể tôm yếu sắp 
chết (nếu có) để phân tích mô học. Tôm nuôi 
trong bể kính được theo dõi hàng ngày trong 
suốt 3 tuần. Kết quả cho thấy tỷ lệ chết ở tôm 
chuyển từ 2 ao nói trên không quá 10% sau 3 
tuần nuôi trong PTN. Kết quả phân tích mô học 
định kỳ trong quá trình theo dõi cũng không có 
dấu hiệu hoại tử gan tụy, không nhiễm các mầm 
bệnh MBV, HPV, YHCV, WSSV, KST.
3.4. Thực nghiệm giải pháp kiểm soát 
bệnh hoại tử gan tụy cấp tính trong điều kiện 
thực địa thông qua việc tầm soát Vibrio tổng 
số và V. parahaemolyticus
Việc tầm soát sự hiện diện của Vibrio 
trong môi trường nước ao nuôi trong suốt vụ 
nuôi (nhất là 2 tháng nuôi đầu tiên) là rất cần 
thiết đối với việc kiểm soát bệnh hoại tử gan 
tụy cấp tính. Trên cơ sở đó có biện pháp can 
thiệp kịp thời bằng chất diệt khuẩn và cấy vi 
79TAÏP CHÍ NGHEÀ CAÙ SOÂNG CÖÛU LONG - 4 - THAÙNG 10/2014
VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN 2
sinh thích hợp. Kết quả ở đồ thị 5 và 6 cho thấy 
hiệu quả phần nào của chất diệt khuẩn và chế 
phẩm vi sinh đối với việc kiểm soát Vibrio và 
V. parahaemolyticus trong nước ao nuôi. Ở hầu 
hết các trường hợp cho thấy mật độ Vibrio tổng 
số và V. parahaemolyticus giảm đáng kể sau khi 
cấy chế phẩm vi sinh.
Đồ thị 5. Mật độ Vibrio trong nước ao nuôi trước diệt khuẩn, sau diệt khuẩn-trước khi cấy vi sinh 
và sau khi cấy vi sinh
Đồ thị 6. Mật độ Vibrio parahaemolyticus trong nước ao nuôi trước diệt khuẩn, sau diệt khuẩn-
trước khi cấy vi sinh và sau khi cấy vi sinh
Cũng giống như việc tầm soát sự hiện 
diện của Vibrio trong môi trường nước, 
kiểm tra Vibrio trong cơ thể tôm nuôi 
cũng rất cần thiết. Trên cơ sở đó có thể 
dùng chất kháng khuẩn hay kháng sinh 
thích hợp khi cần thiết. Kết quả ở đồ thị 
7 cho thấy hiệu quả phần nào của việc 
dùng kháng sinh đối với việc kiểm soát 
Vibrio và V. parahaemolyticus trong gan 
tụy tôm nuôi, mật độ Vibrio giảm sau khi 
sử dụng kháng sinh.
80 TAÏP CHÍ NGHEÀ CAÙ SOÂNG CÖÛU LONG - 4 - THAÙNG 10/2014
VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN 2
Đồ thị 7. Mật độ V. parahaemolyticus trong gan tụy tôm nuôi trước và sau khi sử dụng kháng sinh
IV. THẢO LUẬN
Các kết quả nghiên cứu về bệnh hoại tử năm 
2011 và 2012 chưa thấy bằng chứng tác nhân 
hữu sinh gây bệnh. Giả thuyết nguyên nhân gây 
chết được nghi ngờ là do ảnh hưởng độc tố và 
nhiễm thứ phát vi khuẩn gây bệnh. Độc tố có 
thể đến từ tảo, từ thức ăn hoặc do vi sinh vật tiết 
ra. Dấu hiệu hoại tử gan cơ quan gan tuỵ tương 
tự cũng được ghi nhận khi tôm tiếp xúc với độc 
tố aflatoxin B1 và cũng có hiện tượng ức chế 
phân bào.
Theo Flegel (2012), nghiên cứu trên tôm 
bệnh thu từ các vùng khác nhau đã phát hiện 
vi khuẩn thuộc 2 giống Delftia và Ralstonia. 
Ngoài ra, tác giả còn phát hiện sự hiện diện của 
bacteriophage trên mẫu tôm bị hội chứng gan 
tuỵ cấp tính. Tuy nhiên, vẫn chưa có kết luận 
cuối cùng vì cần phải có kết quả từ các các thí 
nghiệm kiểm chứng. Othman (2012) nghiên 
cứu bệnh tại Malaysia cho rằng hội chứng hoại 
tử gan tuỵ ở tôm có thể liên quan đến sự lột xác, 
sự thiếu hụt các khoáng chất trong ao nuôi và 
sự lạm dụng của hoá chất và chế phẩm vi sinh 
trong quá trình nuôi.
Theo Lightner và ctv., (2013) hội chứng 
hoại tử gan tụy cấp tính do vi khuẩn Vibrio 
parahaemolyticus, vi khuẩn này đã bị nhiễm bởi 
một loại thể thực khuẩn (bacteriophage, virus 
ký sinh trong vi khuẩn) làm tăng cường độc lực 
và gây chết trên tôm. Vi khuẩn được lây truyền 
qua đường miệng, sau đó chúng xâm nhập vào 
đường tiêu hóa tôm, sinh độc tố gây phá hủy mô 
và làm rối loạn chức năng của gan tụy, cơ quan 
tiêu hóa của tôm.
Đối với các ao tôm nuôi bệnh hoại tử gan 
tụy cấp tính chết kéo dài nhiều ngày là hệ quả 
của việc người nuôi dùng các giải pháp can 
thiệp chủ yếu là dùng các loại kháng sinh khác 
nhau. Thực tế cho thấy việc sử dụng kháng sinh 
có thể làm giảm hoặc có tác động tạm dừng chết 
với số lượng lớn nhưng không có các tác động 
phục hồi được chức năng gan. Tôm chậm lớn, 
chết dần trong quá trình nuôi dẫn đến sản lượng 
thấp khi thu hoạch. 
Qua nghiên cứu này cho thấy cùng một 
nguồn tôm nhưng tôm nuôi trong ao chết vì 
bệnh hoại tử gan tụy trong khi số tôm chuyển về 
phòng thí nghiệm không chết do AHPND và tỷ 
lệ chết tích lũy không đáng kể sau 3 tuần nuôi 
(không quá 10%). Điều này cho thấy việc kiểm 
soát tốt trong phòng thí nghiệm có thể không 
làm bùng phát AHPND trong khi vai trò của 
môi trường ao nuôi làm ảnh hưởng lớn đến phát 
sinh AHPND.
81TAÏP CHÍ NGHEÀ CAÙ SOÂNG CÖÛU LONG - 4 - THAÙNG 10/2014
VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN 2
Theo Shrimp New International tháng 
10/2014 với thông tin điều tra từ sở Thủy sản 
ở Thái Lan đã đưa ra khuyến cáo đối với tôm 
giống thả thì tổng số Vibrio trên tôm post là 
không qua 1.000 CFU/g. Trong số này thì nhiều 
nhất chỉ là 100 CFU/g với khuẩn lạc xanh và 
còn lại 900 CFU/g là khuẩn lạc vàng. V. harveyi 
không được phép có mặt.
Theo Pitogo (2012) thì sự đa dạng của vi 
sinh vật trong ao nuôi giảm nhanh sau 2-3 tuần. 
Từ ngày 20 -30 sau khi thả tôm tổng vi sinh 
vật trong nước có xu thế giảm trong khi tổng vi 
khuẩn Vibrio và tổng vi khuẩn phát sáng có xu 
thế tăng cao nhất. Số lượng vi khuẩn phát sáng 
hiện diện với mức độ thấp trước khi có hiện 
tượng tôm chết trong ao và tăng cao nhất khi 
tôm bắt đầu chết và ổn định trong một thời gian 
dài (10 ngày kể từ tôm bắt đầu chết). Có trường 
hợp Vibrio harveyi hiện diện trong môi trường 
ở mức <10 CFU/ml nhưng sẽ gây chết tôm sau 
vài ngày khi mật độ tăng lên 10² CFU/ml. Mật 
độ Vibrio harveyi từ 10-99.000 CFU/pls ở trại 
giống so với 5-95 CFU/pls ngoài tự nhiên.
Theo Lisuwan (2014), màu sắc của gan tụy 
tôm có liên quan đến tổng số Vibrio và tỷ lệ 
chết. Tổng số Vibrio trong gan tụy lên đến 6,02 
x 107CFU/g đối với nhóm tôm có gan tụy trắng 
nhợt nhạt và chết trong vòng 10 ngày sau khi 
thả nuôi. Trong khi mật độ Vibrio thấp hơn (3,5 
x 103CFU/g) trong nhóm tôm có gan tụy màu 
nâu biểu hiện tình trạng gan tụy tốt hơn và tỷ lệ 
sống trên 60%.
V. KẾT LUẬN
Bệnh hoại tử gan tụy xuất hiện gần như 
trong suốt chu kỳ nuôi. Tần suất xuất hiện bệnh 
hoại tử gan tụy cấp tính cao nhất từ 20-45 ngày 
sau khi thả nuôi. Đối với mẫu tôm thu lúc có 
tôm chết trong ao ghi nhận tỷ lệ hoại tử gan tụy 
cao trong quần đàn tuy nhiên ở mức biến động 
cao (10-90%). Đối với các ao ghi nhận có dấu 
hiệu hoại tử đều phải thu hoạch sớm. 
Việc thay đổi cũng như kiểm soát môi 
trường nuôi trong điều kiện thí nghiệm có ảnh 
hưởng phần nào đến khả năng hồi phục của tôm 
bệnh hoại tử gan tụy cấp tính.
Việc tầm soát sự hiện diện của Vibrio và 
V. parahaemolyticus trong nước ao nuôi và 
trong cơ thể tôm được xem là quan trọng trong 
việc kiểm soát bệnh hoại tử gan tụy cấp tính. 
Dựa trên cơ sở của việc tầm soát này mà người 
nuôi có thể can thiệp kịp thời khi phát hiện bất 
thường trong ao nuôi.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Lightner, D.V., 1996. A Handbook of Pathology and 
Diagnostic Procedures for Diseases of Penaeid 
Shrimp. World Aquaculture Society, Baton Rouge, 
Louisiana, USA, p. 304.
Lightner, D.V., Redman, R.M., Pantoja, C.R., Noble, 
B.L., Loc Tran, 2012 Early Mortality Syndrome. 
Global aquaculture advocate 2/2012, p40
Loc Tran, Linda Nunan, Rita, M., Redman, Leone L., 
Mohney, Carlos, R., Pantoja,
Kevin Fitzsimmon, Donald., V., Lightner., 2013. 
Determination of the infectious nature of the agent 
of acute hepatopancreatic necrosis syndrome 
affecting penaeid shrimp. Disease of Aquatic 
Organisms 105, 45-55
NACA, 2012. Final report Asia Pacific Emergency 
Regional Consultation on the Emerging Shrimp 
Disease: Early Mortality Syndrome (EMS)/ Acute 
Hepatopancreatic Necrosis Syndrome (AHPNS)
Panakorn, S., 2012. Opinion article: more on early 
mortality syndrome in shrimp. Aqua Culture Asia 
Pacific, 8 (1): 8-10.
Prachumwat, A., Thitamadee, A., Sriurairatana, 
S., Chuchird, S., Limsuwan, N., Jantratit, C., 
Chaiyapechara, W., Flegel, T.W., 2012. Shotgun 
sequencing of bacteria from AHPNS, a new 
shrimp disease threat for Thailand. Poster, 
National Institute for Aquaculture Biotechnology, 
Mahidol University, Bangkok, Thailand. 
82 TAÏP CHÍ NGHEÀ CAÙ SOÂNG CÖÛU LONG - 4 - THAÙNG 10/2014
VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN 2
SOME RESEARCH RESULTS ON ACUTE HEPATOPANCREATIC 
NECROSIS DISEASE IN SHRIMP CULTURED IN MEKONG DELTA AND 
INITIAL SOLUTIONS
 Nguyen Van Hao1*, Le Hong Phuoc2
ABSTRACT
This study was conducted to determine the evolution of AHPND in shrimp cultured in pond and in 
laboratory conditions. The prevention solution is proposed based on these results. Histopathological 
method was used to analyse 51 shrimp samples collected periodically every 10 days and 36 samples 
collected at disease outbreak. The earliest and latest signs of necrosis appeared on day 17 and 77 
after stocking respectively. The highest frequency of necrosis appearance was recorded from 20 to 
45 days after stocking. Mortality was concentrated in the period of 19-31 days of age. All shrimp 
samples collected at outbreak showed high prevalence of necrosis and lead to early harvesting after 
2-3 days of necrosis detecting. It is interesting that the high variation of necrosis rate have been 
recorded between ponds (9-90%). This result shows the severity of AHPND although only low 
necrosis rate was detected. The early harvesting has been applied in all shrimp ponds with signs 
of necrosis. Shrimp form the slightly infected pond can survive in the labolatory condition for one 
month when water parameters were controlled. Monotring of Vibrio sp. and V. parahaemolyticus in 
the water and in the shrimp body seems to be important in control of AHPND. Based on this result, 
the farmers can decide the solution at certain periods.
Keywords: Hepatopancreatitic necrosis syndrome, shrimp, harvest
Người phản biện: ThS. Ngô Thị Ngọc Thủy
Ngày nhận bài: 10/8/2014
Ngày thông qua phản biện: 28/8/2014
Ngày duyệt đăng: 05/9/2014
1 Research Institute for Aquaculture No2. 
2 Southern Monitoring Center for Aquaculture Environment and Epidemic, Research Institute for Aquaculture No2. 
* Email: haoria2@hcm.vnn.vn 

File đính kèm:

  • pdfmot_so_ket_qua_ve_nghien_cuu_benh_hoai_tu_gan_tuy_cap_tinh_t.pdf