Lo lắng trong học tập tiếng Trung Quốc - Ngoại ngữ thứ hai của sinh viên ngành Ngôn ngữ anh (Trường hợp Trường Đại học Ngân hàng thành phố Hồ Chí Minh)

Nghiên cứu này tìm hiểu tình hình lo lắng và các nhân tố ảnh hưởng đến tâm lý

lo lắng trong học tập ngoại ngữ thứ hai tiếng Trung Quốc của sinh viên ngành

Ngôn ngữ Anh, Trường Đại học Ngân hàng TPHCM hiện nay. Trên cơ sở lý

thuyết về lo lắng trong học tập ngoại ngữ của Horwitz, chúng tôi tiến hành khảo

sát bằng bảng hỏi với 156 sinh viên ngành Ngôn ngữ Anh của Trường vào tháng

11/2019. Kết quả cho thấy, lo lắng về thi cử và lo lắng về học tiếng Trung Quốc

có mức độ cao nhất, lo lắng về lớp học có mức độ thấp nhất; giới tính, thời gian

học và tuổi tác không ảnh hưởng đến mức độ lo lắng; sinh viên có mức độ lo

lắng càng cao thì thành tích học tập càng thấp; các đặc điểm của tiếng Trung

Quốc là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến lo lắng trong học tập của sinh viên.

Lo lắng trong học tập tiếng Trung Quốc - Ngoại ngữ thứ hai của sinh viên ngành Ngôn ngữ anh (Trường hợp Trường Đại học Ngân hàng thành phố Hồ Chí Minh) trang 1

Trang 1

Lo lắng trong học tập tiếng Trung Quốc - Ngoại ngữ thứ hai của sinh viên ngành Ngôn ngữ anh (Trường hợp Trường Đại học Ngân hàng thành phố Hồ Chí Minh) trang 2

Trang 2

Lo lắng trong học tập tiếng Trung Quốc - Ngoại ngữ thứ hai của sinh viên ngành Ngôn ngữ anh (Trường hợp Trường Đại học Ngân hàng thành phố Hồ Chí Minh) trang 3

Trang 3

Lo lắng trong học tập tiếng Trung Quốc - Ngoại ngữ thứ hai của sinh viên ngành Ngôn ngữ anh (Trường hợp Trường Đại học Ngân hàng thành phố Hồ Chí Minh) trang 4

Trang 4

Lo lắng trong học tập tiếng Trung Quốc - Ngoại ngữ thứ hai của sinh viên ngành Ngôn ngữ anh (Trường hợp Trường Đại học Ngân hàng thành phố Hồ Chí Minh) trang 5

Trang 5

Lo lắng trong học tập tiếng Trung Quốc - Ngoại ngữ thứ hai của sinh viên ngành Ngôn ngữ anh (Trường hợp Trường Đại học Ngân hàng thành phố Hồ Chí Minh) trang 6

Trang 6

Lo lắng trong học tập tiếng Trung Quốc - Ngoại ngữ thứ hai của sinh viên ngành Ngôn ngữ anh (Trường hợp Trường Đại học Ngân hàng thành phố Hồ Chí Minh) trang 7

Trang 7

Lo lắng trong học tập tiếng Trung Quốc - Ngoại ngữ thứ hai của sinh viên ngành Ngôn ngữ anh (Trường hợp Trường Đại học Ngân hàng thành phố Hồ Chí Minh) trang 8

Trang 8

Lo lắng trong học tập tiếng Trung Quốc - Ngoại ngữ thứ hai của sinh viên ngành Ngôn ngữ anh (Trường hợp Trường Đại học Ngân hàng thành phố Hồ Chí Minh) trang 9

Trang 9

Lo lắng trong học tập tiếng Trung Quốc - Ngoại ngữ thứ hai của sinh viên ngành Ngôn ngữ anh (Trường hợp Trường Đại học Ngân hàng thành phố Hồ Chí Minh) trang 10

Trang 10

pdf 10 trang xuanhieu 03/01/2022 660
Bạn đang xem tài liệu "Lo lắng trong học tập tiếng Trung Quốc - Ngoại ngữ thứ hai của sinh viên ngành Ngôn ngữ anh (Trường hợp Trường Đại học Ngân hàng thành phố Hồ Chí Minh)", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Lo lắng trong học tập tiếng Trung Quốc - Ngoại ngữ thứ hai của sinh viên ngành Ngôn ngữ anh (Trường hợp Trường Đại học Ngân hàng thành phố Hồ Chí Minh)

Lo lắng trong học tập tiếng Trung Quốc - Ngoại ngữ thứ hai của sinh viên ngành Ngôn ngữ anh (Trường hợp Trường Đại học Ngân hàng thành phố Hồ Chí Minh)
c các kỳ thi, các kỳ kiểm 
tra; sinh viên biết rõ hậu quả hi điểm 
các kỳ thi, các kỳ kiểm tra không tốt. 
Tiếng Trung Quốc tuy có nhiều điểm 
tương đồng với tiếng Việt, song ngôn 
ngữ này có chữ viết khác với con chữ 
Latinh để ghi lại tiếng Việt, tiếng Anh, 
vì thế người học SFL đều rất lo lắng 
với việc học ngôn ngữ này. 
Lo lắng về lớp học có mức thấp nhất, 
kết quả này giống với kết quả khảo 
s t đối với sinh viên chuyên ngành 
Ngôn ngữ Trung Quốc (Lưu Hớn Vũ, 
20 9) Đồng thời, theo nghiên cứu 
(Lưu Hớn Vũ, (20 7), sinh viên SFL 
tiếng Trung Quốc có động cơ học tập 
 h cao, đa số xuất phát từ động cơ 
nhu cầu công cụ du lịch, nghề nghiệp 
và thực hiện giá trị bản thân. Chính vì 
thế, sinh viên thường xuyên đến lớp 
và có mức độ lo lắng thấp nhất về lớp 
học tiếng Trung Quốc. 
3.2. Ảnh hưởng của các nhân tố cá 
thể đối với lo lắng trong học tập 
SFL tiếng Trung Quốc 
3.2.1. Ảnh hưởng của giới tính đối 
với lo lắng trong học tập SFL tiếng 
Trung Quốc 
Bảng 4 cho thấy, sinh viên nữ có mức 
độ lo lắng trong học tập SFL tiếng 
Trung Quốc cao hơn sinh viên nam 
Song, kiểm định giả thuyết về trị trung 
bình của hai tổng thể – trường hợp 
mẫu độc lập cho thấy giữa sinh viên 
nam và sinh viên nữ không có sự 
khác biệt có ý nghĩa về mức độ lo lắng 
trong học tập tiếng Trung Quốc (p > 
Bảng 3. Kết quả kiểm định Paired samples T-test đối với 7 phương diện lo lắng trong 
học tập SFL tiếng Trung Quốc 
Lo lắng về 
lỗi sử 
dụng 
Lo lắng về 
bị hỏi 
Lo lắng về 
nghe nói 
Lo lắng về 
đ nh giá 
tiêu cực 
Lo lắng về 
thi cử 
Lo lắng về 
tiếng Trung 
Quốc 
Lo lắng về lớp học t = -4.699 
p < 0.05 
t = -12.616 
p < 0.05 
t = -14.369 
p < 0.05 
t = -7.462 
p < 0.05 
t = -18.337 
p < 0.05 
t = -11.110 
p < 0.05 
Lo lắng về lỗi sử 
dụng 
 t = -5.834 
p < 0.05 
t = -6.850 
p < 0.05 
t = -7.462 
p = 0.078 
t = -10.980 
p < 0.05 
t = -6.956 
p < 0.05 
Lo lắng về bị hỏi t = 1.690 
p = 0.093 
t = 4.854 
p < 0.05 
t = -4.980 
p < 0.05 
t = -2.574 
p < 0.05 
Lo lắng về nghe nói t = 4.198 
p < 0.05 
t = -7.344 
p < 0.05 
t = -3.706 
p < 0.05 
Lo lắng về đ nh gi 
tiêu cực 
 t = -9.462 
p < 0.05 
t = -6.399 
p < 0.05 
Lo lắng về thi cử t = 0.969 
p = 0.334 
Nguồn: Tác giả, 2019. 
TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 5 (261) 2020 
59 
0 05) Như vậy, giới tính không phải là 
nhân tố ảnh hưởng đến lo lắng trong 
học tập SFL tiếng Trung Quốc của 
sinh viên ngành Ngôn ngữ Anh. 
Kết quả này không giống với kết quả 
nghiên cứu trước đây của chúng tôi 
(Lưu Hớn Vũ, 20 9) cũng không 
giống với kết quả nghiên cứu của Shi 
Ren-juan (2005), He Shan (2014), 
giới tính là nhân tố ảnh hưởng đến lo 
lắng trong học tập tiếng Trung Quốc. 
Qua đó cho thấy môi trường ngôn 
ngữ, chuyên ngành học khác nhau 
cũng sẽ có ảnh hưởng nhất định đến 
t c động của giới tính đối với mức độ 
lo lắng trong học tập tiếng Trung 
Quốc. 
3.2.2. Ảnh hưởng của thời gian 
học đối với lo lắng trong học tập SFL 
tiếng Trung Quốc 
Tình hình lo lắng trong học tập SFL 
tiếng Trung Quốc của sinh viên năm 
thứ hai và năm thứ ba như Bảng 5 . 
Về mặt tổng thể sinh viên năm thứ ba 
có mức độ lo lắng trong học tập SFL 
tiếng Trung Quốc cao hơn sinh viên 
năm thứ hai. Song, kiểm định giả 
thuyết về trị trung bình của hai tổng 
thể – trường hợp mẫu độc lập cho 
thấy không có sự khác biệt có ý nghĩa 
về mức độ lo lắng trong học tập SFL 
tiếng Trung Quốc (p > 0.05) giữa hai 
nhóm sinh viên trên. Kết quả này 
giống với kết quả nghiên cứu của Shi 
Ren-juan (2005), thời gian học tiếng 
Trung Quốc không phải là nhân tố ảnh 
hưởng đến lo lắng trong học tập SFL 
tiếng Trung Quốc. 
Bảng 4. Tình hình lo lắng trong học tập SFL tiếng Trung Quốc theo giới tính 
Phương diện Giới tính Mean SD t p 
Lo lắng về lớp học 
Nam 2.0857 0.58554 
-1.567 0.119 
Nữ 2.4028 0.73378 
Lo lắng về lỗi sử dụng 
Nam 2.6071 0.76406 
-0.558 0.578 
Nữ 2.7289 0.78012 
Lo lắng về bị hỏi 
Nam 3.1071 1.21178 
-0.628 0.531 
Nữ 3.2923 1.03698 
Lo lắng về nghe nói 
Nam 2.9714 0.50753 
-1.217 0.225 
Nữ 3.1704 0.59020 
Lo lắng về đ nh gi tiêu cực 
Nam 2.8929 1.12965 
0.114 0.910 
Nữ 2.8627 0.92855 
Lo lắng về thi cử 
Nam 3.3929 0.88096 
-1.282 0.202 
Nữ 3.7394 0.97253 
Lo lắng về tiếng Trung Quốc 
Nam 3.3929 1.53396 
-0.510 0.611 
Nữ 3.6056 1.48495 
Tổng thể 
Nam 2.9214 0.72124 
-1.104 0.271 
Nữ 3.1146 0.61511 
Nguồn: Tác giả, 2019. 
 LƯU HỚN VŨ – LO LẮNG TRONG HỌC TẬP TIẾNG TRUNG QUỐC 
60 
3.3. Mối quan hệ giữa tuổi tác, 
thành tích học tập với lo lắng trong 
học tập SFL tiếng Trung Quốc 
Chúng tôi sử dụng phân tích tương 
quan Pearson để kiểm định mối tương 
quan giữa tuổi tác, thành tích học tập 
và lo lắng trong học tập SFL tiếng 
Trung Quốc của sinh viên. Kết quả 
như Bảng 6. 
Bảng 6. Phân tích mối tương quan giữa 
tuổi tác, thành tích học tập và lo lắng 
trong học tập SFL tiếng Trung Quốc 
 Tuổi tác 
Thành tích 
học tập 
Pearson Correlation 0.63 -0.371 
Sig. (2-tailed) 0.437 0.000 
Nguồn: Tác giả, 2019. 
Tuổi tác và lo lắng trong học tập SFL 
tiếng Trung Quốc của sinh viên có hệ 
số tương quan r = 0 63 và không có ý 
nghĩa nổi trội (p > 0.05). Như vậy không 
có mối tương quan giữa mức độ lo 
lắng và tuổi tác của người học Điều 
này có nghĩa là hông có sự khác biệt 
về mức độ lo lắng giữa những sinh 
viên có độ tuổi khác nhau. 
Bảng 6 cũng cho thấy thành tích học 
tập và lo lắng trong học tập SFL tiếng 
Trung Quốc của sinh viên có hệ số 
tương quan r = -0.371 và ý nghĩa nổi 
trội (p < 0.05). Qua đó cho thấy mức 
độ lo lắng có mối tương quan nghịch 
với thành tích học tập, sinh viên có 
mức độ lo lắng càng cao thì thành tích 
Bảng 5. Tình hình lo lắng trong học tập SFL tiếng Trung Quốc theo thời gian học 
Phương diện Năm học Mean SD t p 
Lo lắng về lớp học 
Năm thứ hai 2.2345 0.70030 
-2.760 0.006 
Năm thứ ba 2.5507 0.72388 
Lo lắng về lỗi sử dụng 
Năm thứ hai 2.6609 0.80150 
-1.030 0.305 
Năm thứ ba 2.7899 0.74462 
Lo lắng về bị hỏi 
Năm thứ hai 3.3218 1.07286 
0.615 0.539 
Năm thứ ba 3.2174 1.02713 
Lo lắng về nghe nói 
Năm thứ hai 3.0874 0.54363 
-1.572 0.118 
Năm thứ ba 3.2348 0.62681 
Lo lắng về đ nh gi tiêu cực 
Năm thứ hai 2.7931 0.89101 
-1.074 0.284 
Năm thứ ba 2.9565 1.00637 
Lo lắng về thi cử 
Năm thứ hai 3.8391 0.88756 
1.912 0.058 
Năm thứ ba 3.5435 1.04227 
Lo lắng về tiếng Trung Quốc 
Năm thứ hai 3.4483 1.34691 
-1.308 0.193 
Năm thứ ba 3.7609 1.63736 
Tổng thể 
Năm thứ hai 3.0550 0.58509 
-0.947 0.345 
Năm thứ ba 3.1505 0.67296 
Nguồn: Tác giả, 2019. 
TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 5 (261) 2020 
61 
học tập của sinh viên càng thấp, và 
ngược lại sinh viên có mức độ lo lắng 
càng thấp thì thành tích học tập của 
sinh viên càng cao. Kết quả này đã 
chứng minh nhận định của Macintyre 
& Gregersen (20 2) “mức độ lo lắng 
cao và thành tích học tập thấp có 
quan hệ mật thiết với nhau”, đồng thời 
cũng đã iểm chứng kết quả nghiên 
cứu của Horwitz, Horwitz, và Cope 
(1986), Qian Xu-jing (钱旭菁) (1999), 
Zhang Li (张莉) & Wang Biao (王飙) 
(2002) và Shi Ren-juan (2005). 
3.4. Nguyên nhân dẫn đến lo lắng 
trong học tập SFL tiếng Trung 
Quốc 
Đ nh giá của sinh viên về 5 nguyên 
nhân dẫn đến lo lắng trong học tập 
SFL tiếng Trung Quốc như Bảng 7. 
Sau khi tiến hành kết quả kiểm định trị 
trung bình của mẫu phối hợp từng cặp 
đối với năm nguyên nhân dẫn đến lo 
lắng trong học tập SFL tiếng Trung 
Quốc, chúng tôi được kết quả như 
Bảng 8. Chúng ta thấy thứ tự 5 
nguyên nhân dẫn đến lo lắng trong 
học tập SFL tiếng Trung Quốc của 
sinh viên như sau: đặc điểm tiếng 
Trung Quốc > giao tiếp giữa thầy và 
trò = bản thân người học > nội dung 
gi o trình = xung đột văn hóa. Kết quả 
này cho thấy trong quá trình học tập 
SFL tiếng Trung Quốc, đặc điểm tiếng 
Trung Quốc là nguyên nhân chủ yếu 
dẫn đến lo lắng trong học tập tiếng 
Trung Quốc của sinh viên. Kết quả 
này giống với kết quả nghiên cứu của 
Ding An-qi & Wu Si-na (2011), Lưu 
Hớn Vũ (20 9) 
Bảng 8. Kết quả kiểm định Paired samples T-test đối với 5 nguyên nhân dẫn đến lo lắng 
trong học tập SFL tiếng Trung Quốc 
 Nội dung 
giáo trình 
Đặc điểm tiếng 
Trung Quốc 
Bản thân 
người học 
Xung đột 
văn hóa 
Giao tiếp giữa thầy và trò t = 5.361 
p < 0.05 
t = -13.203 
p < 0.05 
t = -1.672 
p = 0.096 
t = 3.992 
p < 0.05 
Nội dung giáo trình t = -16.016 
p < 0.05 
t = -6.240 
p < 0.05 
t = -0.667 
p = 0.506 
Đặc điểm tiếng Trung Quốc t = 12.785 
p < 0.05 
t = 13.981 
p < 0.05 
Bản thân người học t = 5.278 
p < 0.05 
Nguồn: Tác giả, 2019. 
Bảng 7. Nguyên nhân dẫn đến lo lắng 
trong học tập SFL tiếng Trung Quốc 
Nguyên nhân Mean SD 
Giao tiếp giữa thầy và 
trò 
2.1688 0.76153 
Nội dung giáo trình 1.7821 0.76660 
Đặc điểm tiếng Trung 
Quốc 
3.2404 1.05566 
Bản thân người học 2.2788 0.89846 
Xung đột văn hóa 1.8333 0.90755 
Nguồn: Tác giả, 2019. 
 LƯU HỚN VŨ – LO LẮNG TRONG HỌC TẬP TIẾNG TRUNG QUỐC 
62 
4. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 
Sinh viên ngành Ngôn ngữ Anh có sự 
lo lắng trong học tập SFL tiếng Trung 
Quốc ở mức độ trung bình. Mức độ lo 
lắng này không chịu t c động bởi 
nhân tố giới tính, song chịu t c động 
nhất định của nhân tố thời gian học 
tập tiếng Trung Quốc trên phương 
diện lo lắng về lớp học. Mức độ lo 
lắng của sinh viên có mối quan hệ 
nhất định với thành tích học tập tiếng 
Trung Quốc, song không có mối 
tương quan với tuổi tác của sinh viên. 
C c đặc điểm của tiếng Trung Quốc là 
nguyên nhân chủ yếu dẫn đến lo lắng 
trong học tập SFL tiếng Trung Quốc 
của sinh viên. 
Từ những kết quả nghiên cứu trên 
đây, chúng tôi xin đưa ra một số kiến 
nghị sau: (1) Giảng viên cần thường 
xuyên khích lệ những sinh viên có 
thành tích học tập chưa tốt, giúp sinh 
viên cố gắng hơn trong học tập, nâng 
cao năng lực tiếng Trung Quốc của 
bản thân; (2) Trong quá trình giảng 
dạy, giảng viên cần nêu bật c c đặc 
điểm của tiếng Trung Quốc, chú trọng 
giảng dạy những điểm tương cận và 
dị biệt về ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp 
giữa hai ngôn ngữ.  
PHỤ LỤC 
Bảng điều tra lo lắng trong học tập ngoại ngữ thứ hai - tiếng Trung Quốc 
Căn cứ vào tình hình thực tế, bạn hãy hoanh tròn chữ số biểu thị mức độ đồng ý cho c c 
câu bên dưới 
1 === 
Hoàn toàn hông đồng ý 
=== 2 === 
Hơi hông đồng ý 
=== 3 === 
Phân vân 
=== 4 === 
Hơi đồng ý 
=== 5 
Hoàn toàn đồng ý 
1 Trong giờ học tiếng Trung Quốc, tôi rất không tự tin khi phát biểu 1 2 3 4 5 
2 
Trong giờ học tiếng Trung Quốc, từ trước đến giờ tôi luôn lo lắng việc mình 
sẽ xuất hiện lỗi sai 
1 2 3 4 5 
3 
Trong giờ học tiếng Trung Quốc, khi biết giảng viên sắp hỏi tôi, tôi sẽ run lên 
vì lo sợ 
1 2 3 4 5 
4 
Khi giảng viên nói tiếng Trung Quốc, tôi nghe không hiểu, tôi sẽ cảm thấy lo 
sợ 
1 2 3 4 5 
5 Học thêm nhiều giờ học tiếng Trung Quốc nữa, tôi sẽ cảm thấy rất lo sợ 1 2 3 4 5 
6 Tôi luôn cảm thấy tiếng Trung Quốc của các bạn khác tốt hơn tôi 1 2 3 4 5 
7 Khi thi tiếng Trung Quốc, tôi thường sẽ cảm thấy lo sợ 1 2 3 4 5 
8 
Trong giờ học tiếng Trung Quốc, khi phát biểu mà không có chuẩn bị trước, 
tôi cảm thấy lo sợ 
1 2 3 4 5 
9 Tôi sợ những hậu quả của việc hông đậu các môn tiếng Trung Quốc 1 2 3 4 5 
10 
Trong giờ học tiếng Trung Quốc, tôi sẽ lo sợ đến nỗi quên hết những gì tôi 
biết 
1 2 3 4 5 
11 Trong giờ học tiếng Trung Quốc, tôi không chủ động phát biểu 1 2 3 4 5 
12 Tôi sợ nghe không hiểu những chỉnh sửa lỗi sai của giảng viên dành cho tôi 1 2 3 4 5 
TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 5 (261) 2020 
63 
13 
Cho dù có chuẩn bị kỹ lưỡng trước giờ học, tôi vẫn luôn cảm thấy lo sợ 
trong giờ học tiếng Trung Quốc 
1 2 3 4 5 
14 Tôi thường không muốn đi học các giờ học tiếng Trung Quốc 1 2 3 4 5 
15 Trong giờ học tiếng Trung Quốc, tôi không tự tin khi phát biểu 1 2 3 4 5 
16 Tôi sợ giảng viên tiếng Trung Quốc chỉnh sửa từng lỗi sai của tôi 1 2 3 4 5 
17 Khi giảng viên tiếng Trung Quốc sắp hỏi tôi, tôi thấy tim mình đập nhanh 1 2 3 4 5 
18 
Nói tiếng Trung Quốc trước mặt các bạn khác, tôi cảm thấy rất xấu hổ, sợ 
họ cười tôi 
1 2 3 4 5 
19 
Học tiếng Trung Quốc phải nhớ một lượng lớn từ vựng, sẽ khiến tôi cảm 
thấy bất an 
1 2 3 4 5 
20 
Học tiếng Trung Quốc phải nhớ một lượng lớn chữ Hán, sẽ khiến tôi cảm 
thấy bất an 
1 2 3 4 5 
21 
Trong giờ học, giảng viên nói quá nhanh, tôi nghe không hiểu, cũng hông 
biết trả lời câu hỏi của giảng viên 
1 2 3 4 5 
22 Nội dung bài khóa không thực dụng lắm 1 2 3 4 5 
23 
Trong giờ học, khi phát biểu của tôi bị giảng viên cắt ngang, tôi cảm thấy rất 
áp lực 
1 2 3 4 5 
24 
Tôi cảm thấy phát âm tiếng Trung Quốc rất khó, từ vựng và ngữ pháp lại 
nhiều 
1 2 3 4 5 
25 Tôi cảm thấy chữ H n cũng mang đến cho tôi áp lực 1 2 3 4 5 
26 
Những câu ví dụ mà giảng viên sử dụng thường rất khó, tôi không thể hiểu 
hết 
1 2 3 4 5 
27 Tôi không có tự tin lắm với việc học tiếng Trung Quốc 1 2 3 4 5 
28 Đã học tiếng Trung Quốc rất lâu rồi, nhưng vẫn không có tiến bộ gì 1 2 3 4 5 
29 
Tôi hông thích văn hóa Trung Quốc và cách thức tư duy của người Trung 
Quốc lắm 
1 2 3 4 5 
30 Tôi không có hứng thú lắm với nội dung trong sách giáo khoa 1 2 3 4 5 
TÀI LIỆU TRÍCH DẪN 
1. Arnold, J. 2000. Affect in Language Learning. Beijing: Foreign Language Teaching 
and Research Press. 
2. Brown, H D 973 “Affective Variables in Second Language Acquisition” Language 
Learning, (2), 231. 
3. Cao Xian-wen曹贤文 & Tian Xin田鑫. 2017. “汉语国际教育硕士留学生学习焦虑及其原因调查”. 华
文教学与研究, (4), 1-13. 
4. Ding An-qi丁安琪 & Wu Si-na吴思娜. 2011. 汉语作为第二语言学习者实证研究. 北京: 世界图书出
版公司. 
5. He Shan何珊 20 4 “外国留学生汉语学习焦虑研究” 云南师范大学学报 (对外汉语教学与研究版), (2), 
61-69. 
6. Horwitz, E K , Horwitz, M B & Cope, J 986 “Foreign language classroom anxiety”. 
The Modern Language Journal, 70 (2), 125-132. 
 LƯU HỚN VŨ – LO LẮNG TRONG HỌC TẬP TIẾNG TRUNG QUỐC 
64 
7. Lưu Hớn Vũ 20 7 “Động cơ học tập ngoại ngữ thứ hai – tiếng Trung Quốc của sinh 
viên ngành Ngôn ngữ Anh, Trường Đại học Ngân hàng TPHCM”. Tạp chí Nghiên cứu 
nước ngoài, 33 (2), 146-154. 
8. Lưu Hớn Vũ 20 9 “Lo lắng trong học tập tiếng Trung Quốc của sinh viên ngành 
Ngôn ngữ Trung Quốc”. Tạp chí Nghiên cứu nước ngoài, 35 (5), 54-65. 
9. MacIntyre, P. D. & Gregersen, T. 2012. “Affect: The role of Language Anxiety and 
Other Emotions in Language learning”. In S. Mercer, S. Ryan, & M. Williams (Eds.), 
Language Learning Psychology: Research, Theory and Pedagogy. Basingstoke: 
Palgrave. 
10. Oxford R. L. 1999. “Anxiety and the Language Learner: New insights”. In Anold J (ed.). 
Affect in Language Learning. Cambridge: Cambridge University Press. 
11. Qian Xu-jing钱旭菁 999 “外国留学生学习汉语时的焦虑”. 语言教学与研究, (2), 144-154. 
12. Shi Ren-juan施仁娟. 2005. 留学生汉语学习焦虑的状况、成因和应付方式研究. 华东师范大学硕士学
位论文. 
13. Zhang Li张莉 & Wang Biao王飙. 2002. “留学生汉语焦虑感与成绩相关分析及教学对策” 语言教
学与研究, (1), 36-42. 
14. Zhang Xiao-lu张晓路 2008 “留学生汉语使用焦虑与归因的相关性研究” 语言教学与研究, (2), 32-
37. 

File đính kèm:

  • pdflo_lang_trong_hoc_tap_tieng_trung_quoc_ngoai_ngu_thu_hai_cua.pdf