Lễ hội dân gian và sự phát triển du lịch hiện nay
Tóm tắt
Lễ hội dân gian Việt Nam với số lượng lên đến 7.039 trong tổng số gần 8.000 lễ hội, lại trải rộng
khắp các làng quê, vùng miền trên cả nước cho thấy đây là một tiềm năng vô cùng to lớn cho phát
triển du lịch. Du lịch lễ hội là hình thức du lịch tổng hợp, đáp ứng được cùng lúc nhiều nhu cầu của
con người. Ngoài việc đi hội như một nhu cầu tâm linh không thể thiếu được của người Việt Nam,
thì đi hội còn là một sự khám phá về di tích lịch sử, văn hóa, danh lam thắng cảnh, đặc sản văn hóa,
ẩm thực,. của mỗi địa phương. Do vậy, du lịch lễ hội là một nguồn lực không nhỏ cho sự phát triển
kinh tế, xã hội và văn hóa đối với việc phát triển đất nước trong giai đoạn hiện nay. Đặc biệt, trong
bối cảnh kinh tế thị trường, việc biến di sản văn hóa thành một tài sản kinh tế phục vụ đời sống lại
càng mang tính thời sự. Du lịch và lễ hội dân gian có quan hệ tương tác tích cực để cùng nhau phát
triển. Tuy nhiên, bên cạnh đó còn một số hạn chế của lễ hội dân gian trong bối cảnh phát triển du
lịch hiện nay như sự nhàm chán, thế tục hóa, giảm tính thiêng hay sự lộn xộn trong thực hành các lễ
hội dân gian. Do vậy, để lễ hội dân gian ngày càng trở thành nguồn lực quan trọng trong phát triển
du lịch, đem lại lợi ích kinh tế cho mỗi địa phương, đòi hỏi công tác nghiên cứu và quản lý cần được
đề cao và chú trọng.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Tóm tắt nội dung tài liệu: Lễ hội dân gian và sự phát triển du lịch hiện nay
... Điều này tạo tâm lý an tâm, thoải mái và vui vẻ cho du khách. Bên cạnh việc lễ bái thoả mãn tâm linh, du khách còn được hưởng thụ về mặt tinh thần như tham gia vào lễ tế, rước xách, nhảy, múa, trò chơi, trò diễn... Tại những sinh hoạt này, du khách được đắm mình vào không khí hội hè: cẩn trọng, thiêng liêng, từ tốn trong đám rước hay lễ bái; vui hết mình trong những trò chơi, cuộc đua tranh giành, hò hét, hồi hộp và cay cú thực sự đến nỗi phờ phạc, tả tơi như đi hội là vậy; tham gia vào những cuộc ăn uống tập thể, đồ ăn có thể không ngon bằng ở những bữa tiệc mà họ được ăn ở nơi khác, song đây là miếng ăn nhuốm màu linh thiêng và miếng lộc (“Một miếng lộc Thánh bằng một gánh lộc trần”) có ý nghĩa vô cùng to lớn, đem lại cho du khách một niềm tự hào và niềm vui vô tận. Mặt khác, bằng việc tham gia vào lễ hội dân gian, du khách có thể tìm hiểu nguồn gốc, lai lịch của các vị thần, các nhân vật được thờ cúng ở đây, để hiểu biết thêm về lịch sử địa phương nơi diễn ra lễ hội, về vai trò của di tích và nhân vật ấy trong bối cảnh chung của các lễ hội và văn hóa cả nước. Điều này giúp cho sự hiểu biết của họ được tăng thêm, phong phú thêm, và trong chừng mực nào đó, lòng tự hào, tình yêu quê hương đất nước của họ càng được củng cố hơn nữa sau một chuyến đi du lịch lễ hội. Đối với tất cả các lễ hội dân gian, bản thân nó đã là một hiện tượng văn hóa tổng hợp, sống động, luôn biến đổi không ngừng mà không phải là những sản phẩm tĩnh tại và thuần túy như các hiện vật bảo tàng, là những thực hành văn hóa góp phần vào đời sống của các dân tộc, đóng góp vào sự phát triển kinh tế và xã hội của các dân tộc ấy trong mọi thời kỳ lịch sử. Cũng cần nhận thấy rằng, các lễ hội dân gian ở nước ta vô cùng phong phú và có giá trị, tuy nhiên không phải lễ hội nào cũng có thể trở thành sản phẩm du lịch, nhất là những sản phẩm du lịch hấp dẫn du khách. Do đó, chính quyền hoặc người làm du lịch phải biết khai thác xem lễ hội nào, hay phần nào của lễ hội, có thể trở thành sản phẩm của du lịch lễ hội, có như vậy mới thỏa mãn nhu cầu của khách và phát huy được giá trị văn hóa của di tích, lễ hội ấy. Nhà nước cũng như chính quyền địa phương và cả cộng đồng chủ nhân của lễ hội luôn có ý thức gắn kết các lễ hội truyền thống vào hoạt động du lịch, dùng lễ hội dân gian như một điểm nhấn thu hút khách du lịch đến với địa phương mình. Ví như, lễ hội Đền Hùng những năm gần đây thường gắn với năm du lịch các tỉnh phía Bắc; lễ Khao lề thế lính Hoàng Sa ở Lý Sơn luôn được tổ chức gắn với năm du lịch biển; lễ hội Bà Chúa Xứ từ năm 2001 đến nay liên tục gắn với năm du lịch và gắn với các hoạt động văn hóa nghệ thuật hay hoạt động thể thao tại địa phương (hội đua bò Bảy Núi); lễ hội Bà Chúa Kho gắn với hành trình về miền di Số 31 (Tháng 3 - 2020)72 NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA sản dân ca quan họ Bắc Ninh, lễ hội Kiếp Bạc, Côn Sơn, Yên Tử Có thể thấy rõ, du lịch và lễ hội dân gian ngày càng gắn kết chặt chẽ với nhau, dựa vào nhau để phát triển và mở rộng quy mô, thu hút được nhiều khách thập phương. Không chỉ bằng cảm nhận mà các số liệu gần đây cũng đã chỉ ra điều đó. Chẳng hạn như: Tổng số lượt khách hành hương về Đền Hùng trong 5 ngày lễ hội năm 2016 gấp hơn 5 lần số dân tỉnh Phú Thọ, hay trong năm 2016 tám lễ hội lớn của nước ta (lễ hội Đền Hùng, chùa Hương, Yên Tử, đền Trần, Phủ Giày, Côn Sơn - Kiếp Bạc, núi Bà Đen, Bà Chúa Xứ) đã thu hút khoảng 16 triệu lượt khách [12]. Điều này cho thấy loại hình du lịch lễ hội ngày càng là một nhu cầu lớn đối với người dân. Với các lễ hội như Bà Chúa Kho, miếu Bà Thiên Hậu, hội Gióng, tuy không có con số chính xác số lượng khách du lịch là bao nhiêu song nhìn dòng người xe tắc nghẽn các con đường vào các lễ hội trong nhiều ngày, nhất là những ngày chính hội có thể hình dung được lễ hội đã thu hút khách du lịch, hành hương nhiều đến thế nào. Chỉ lấy một ví dụ về số lượng khách du lịch và nguồn thu từ du lịch ở lễ hội Bà Chúa Xứ núi Sam đã có thể thấy lễ hội hiện nay gắn bó với du lịch ra sao, trở thành nguồn lực quan trọng cho phát triển du lịch thế nào. Trong mùa lễ hội năm 2016, riêng “sáng ngày 11/2/2016 (nhằm ngày mùng 4 Tết), tại khu du lịch cấp quốc gia Miếu Bà Chúa Xứ núi Sam, thành phố Châu Đốc, tỉnh An Giang, dù mới hơn 8 giờ 30 phút sáng nhưng dòng người xe tấp nập từ khắp nơi đổ về khiến một đoạn đường dài gần 1km bị tê liệt. Theo Ban Quản lý khu di tích Văn hóa lịch sử và du lịch Núi Sam, đơn vị đã đặt cổng thu phí tham quan khách du lịch vào khu du lịch Núi Sam bắt đầu từ ngày mùng 2 Tết. Ước tổng số khách đến trong hai ngày trên 100.000 lượt khách. Trong đó, số khách thu phí đi bằng xe du lịch là 35.000 vé, với số tiền gần 700 triệu đồng” [11]. Qua các số liệu thống kê cho thấy, số lượt khách đến với khu du lịch Núi Sam hàng năm rất đông, năm sau luôn cao hơn năm trước. Năm 2015, Núi Sam đón 4,078 triệu lượt khách đến hành hương và tham quan, chiếm 95% lượt khách đến Châu Đốc. Tổng lượt khách đến Núi Sam tăng khá nhanh từ năm 2007 đến năm 2015 (tăng từ 1.345.000 lượt lên 4.078.000 lượt), chiếm 65,2% tổng lượng khách đến An Giang. Điều đáng lưu ý là trong những năm vừa qua tốc độ tăng trưởng của số khách đến Núi Sam luôn đạt trên 10%/năm, trong khi tốc độ tăng tổng lượng khách đến Châu Đốc và An Giang chỉ đạt khoảng 5%/năm1. Điều này thể hiện sức hấp dẫn của lễ hội và khu du lịch Núi Sam. Nhìn vào số liệu trên có thể thấy tổng thu từ khách du lịch tăng khá nhanh. Chỉ trong 5 năm (từ 2011 đến 2015), tổng thu từ khách du lịch đã tăng hơn 3 lần, trong khi lượng khách chỉ tăng 15%. Nguồn thu này chưa bao gồm nguồn thu từ Ban Quản trị lăng miếu Núi Sam (bình quân 100 tỷ đồng/năm). Lễ hội càng sôi nổi, phong phú và đa dạng lại càng trở thành nguồn lực và tài nguyên quan trọng của du lịch. Ngược lại, du lịch cũng trở thành động lực, thậm chí mục đích cho những sự đầu tư, phục hồi và mở rộng lễ hội. Bởi vậy, tất cả các lễ hội dân gian có quy mô lớn và phong phú đều đã và đang trở thành địa điểm du lịch hấp dẫn du khách. Các lễ hội ấy đều có những chỉ dẫn du lịch và là điểm nhấn trong các tour du lịch văn hóa chung hoặc tour riêng cho việc đi lễ hội. Có thể thấy, lễ hội hấp dẫn du lịch khi mỗi lễ hội ở mỗi vùng miền khác nhau lại có không gian văn hóa khác nhau, bối cảnh, cách thức tổ chức lễ hội khác nhau, nghi lễ và nét bản sắc khác nhau. Chính sự đa dạng đó của lễ hội dân gian trong xã hội hiện nay đã là chỗ dựa vững chắc cho du lịch phát triển. 2. Tuy nhiên, nhìn vào thực tế thực hành lễ hội hiện nay, có thể thấy xu hướng đồng dạng hóa lễ hội đang trở nên phổ biến. Điều này đã khiến cho lễ hội dân gian phần nào trở nên nhạt nhòa, na ná giống nhau, các lễ hội nhạt dần đi tính đặc trưng, do đó ảnh hưởng lớn đến du lịch. Nếu các lễ hội đều được tổ chức theo một khuôn mẫu, một trình tự, một kịch bản gần như nhau sẽ dẫn đến sự nhàm chán, 73Số 31 (Tháng 3 - 2020) VĂN HÓA DU LỊCH NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA kém hấp dẫn. Chắc chắn không có khách du lịch nào muốn tham dự vào tour du lịch lễ hội khi biết chắc lễ hội đó không khác gì với các lễ hội mà mình đã được biết. Khách du lịch cũng sẽ “một đi không trở lại” khi tham dự một lễ hội không còn là lễ hội dân gian của riêng địa phương theo đúng nghĩa nữa mà trở nên phổ quát, giống nhau, ở đâu cũng vậy. Bên cạnh đó, xu hướng thế tục hóa trong các lễ hội hiện nay cũng đã mang tới cho lễ hội những màu sắc mới, đời thường hơn và cũng giảm tính thiêng hơn. Xu hướng thế tục hóa đã tạo ra sự đa dạng và gần gũi cho lễ hội dân gian. Nhiều người dân đi lễ hội không biết lễ hội đó tôn vinh vị thần nào, hoặc không phải chỉ để khấn vị thần được tôn thờ, họ cứ đi và được hòa vào không khí tâm linh, như vậy đã là đủ. Đó là chưa kể nhiều người dân đi lễ hội không vì mục đích đi lễ mà mục đích của họ chỉ là đi chơi, lấy lễ hội làm không gian gặp gỡ, tụ họp... Nhiều người rõ ràng mục đích đi lễ nhưng họ không hiểu biết về trình tự nghi lễ, lễ vật,... dẫn đến thực hành lễ thức tuỳ tiện, chẳng hạn họ có thể dâng cúng bất cứ lễ vật gì mà họ cho là hợp lý từ thực phẩm, thức ăn, đồ dùng, đồ trang điểm... Lễ vật là tiền ngày càng trở nên phổ biến. Họ cũng có thể kêu cầu thần thánh bất cứ điều gì mà họ cảm thấy cần thiết cho cuộc sống của họ, họ cầu cúng trong tâm lý chung là kéo thần thánh về gần với cuộc sống đời thường để phục vụ cho những nhu cầu cũng hết sức đời thường của họ. Xu hướng này cũng góp phần làm hạn chế tính thiêng của lễ hội dân gian, khiến cho lễ hội trở nên tự do, thậm chí có phần tùy tiện, lộn xộn, không còn đáp ứng được sự trông đợi của khách du lịch. Với sự nở rộ của lễ hội hiện nay, việc quản lý được đặt ra là cần thiết, song quản lý lễ hội theo xu hướng nhà nước hóa lại đang mang tới cho lễ hội dân gian rất nhiều bất cập. Ví như sự lạm dụng kịch bản trong lễ hội, sự ganh đua danh tiếng, sự can thiệp quá sâu của chính quyền và những định hướng, chỉ đạo, hướng lễ hội nghiêng về mục đích tuyên truyền, đã khiến cho nhiều lễ hội phai nhạt màu sắc dân gian truyền thống vốn có và giảm sút quyền chủ động của người dân trong vai trò là chủ thể của lễ hội. Nhà nước hóa lễ hội cũng thể hiện qua việc phân cấp lễ hội. Những lễ hội cấp quốc gia thường xuyên có sự tham gia của các vị lãnh đạo Nhà nước và sự chỉ đạo chặt chẽ của Nhà nước về cách thức tổ chức, khách mời và cả những hoạt động trong lễ hội đã khiến cho lễ hội dường như là của Nhà nước. Không chỉ vậy, “hội chứng xin nâng cấp lễ hội” cũng khiến cho các địa phương có lễ hội đua nhau xin nâng cấp vì muốn lễ hội của mình phải ngang hàng hoặc hơn các địa phương có lễ hội khác và được cấp nhiều kinh phí hơn, để tổ chức lễ hội to đẹp hơn. Sự ganh đua gây ra lãng phí và cả sự không đoàn kết trong cộng đồng, nguy cơ khiến cho lễ hội thiên về hình thức, đề cao sự thể hiện của những nhóm giàu mà không còn thực chất là ngày hội của dân chúng nữa. Nhiều lễ hội dân gian được gắn với những ngày kỷ niệm lớn, những sự kiện văn hóa, chính trị tiêu biểu, trong các diễn văn khai mạc hay kết thúc lễ hội thường gửi gắm những thông điệp chính trị để giáo dục, tuyên truyền,... và chính những điều này cũng khiến cho khách du lịch giảm đi sự hào hứng với lễ hội dân gian. Lễ hội dân gian thường gắn chặt với với các cơ sở tín ngưỡng, vì thế cùng với sự phát triển sôi nổi của lễ hội thì các cơ sở tín ngưỡng cũng trong xu hướng được chú trọng trùng tu, tôn tạo và xây mới, tạo ra không gian rộng rãi hơn cho việc tổ chức lễ hội, song việc này cũng gây nên nhiều bàn luận và mâu thuẫn. Ở một số đền, miếu, chùa, việc trùng tu các di tích được thực hiện tùy tiện làm mất đi giá trị vốn có của những không gian tâm linh. Nhiều di tích sơn tượng mới lòe loẹt, thay cột gỗ bằng cột xi măng, những bức chạm khắc cổ nhuốm màu thời gian bị thay bằng những bức chạm mới,... khiến cho các di tích cũng dần trở nên đồng dạng, giống nhau khiến cho du khách không còn có nhu cầu khám phá nhiều di tích và lễ hội khác nhau nữa. 3. Như vậy, du lịch rõ ràng là đã góp phần phát triển lễ hội dân gian một cách tích cực. Một phần nhờ vào du lịch mà lễ hội dân gian được gìn giữ, phát huy và làm giàu, các phong tục tập quán, các giá trị văn hóa trong lễ hội Số 31 (Tháng 3 - 2020)74 NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA dân gian được khôi phục lại để phục vụ du khách, các nét bản sắc văn hóa của từng lễ hội, từng vùng miền được khẳng định trong niềm tự hào và người dân mong muốn bảo tồn nó. Ở chiều tương tác ngược lại, lễ hội dân gian hỗ trợ đắc lực cho sự tăng trưởng của ngành du lịch, trước hết lễ hội dân gian giúp cho bức tranh du lịch của nước ta thêm phong phú với đa dạng hơn các sự lựa chọn cho du khách, lễ hội dân gian mang đậm bản sắc của văn hóa làng, văn hóa Việt Nam vì vậy rất hấp dẫn các du khách nước ngoài, ngành Du lịch dựa vào nguồn lực văn hóa đa dạng và đặc sắc này mà có thêm được số lượng lớn du khách trong nước và nước ngoài. Có thể nói, bức tranh lễ hội đa dạng và sôi nổi hiện nay, kết nối với những bối cảnh chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội đương đại là điều kiện rất tốt cho sự phát triển du lịch. Chúng ta đã và đang chứng kiến một xu hướng nổi trội của những sự phục hồi của lễ hội dân gian trong sự tác động, chi phối ảnh hưởng mạnh mẽ của kinh tế thị trường thì lễ hội như một nguồn lực cho sự phát triển du lịch. Lễ hội và du lịch là hai phạm trù gắn bó mật thiết với nhau, hỗ trợ cho nhau và cùng được khuyến khích phát triển trong bối cảnh hiện nay. Chỉ khi chúng ta hiểu rõ được về các vấn đề này và nhìn nhận chúng trong sự gắn kết của tổng thể các yếu tố văn hóa và xã hội, chính trị và kinh tế thì lễ hội truyền thống sẽ đem lại những lợi ích không nhỏ cho sự phát triển kinh tế của đất nước. L.H.L Chú thích 1 Nguồn: Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch An Giang. Tài liệu tham khảo 1. Antonio Machado (2003), “Du lịch và phát triển bền vững (Tourism and Sustainable Devel- opment)”, in trong Dự án Xây dựng năng lực cho phát triển Du lịch ở Việt Nam, VNAT và FUNDESO, Hà Nội. 2. Cục Văn hóa cơ sở, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch (2008), Thống kê lễ hội, Hà Nội. 3. Cao Lộ Gia (2004), Nhân loại học du lịch Trung Quốc, Nxb. Du lịch Quảng Tây. 4. Hội Liên hiệp Văn học nghệ thuật An Giang (2013), 10 năm lễ hội Vía Bà Chúa Xứ Núi Sam nâng cấp lễ hội quốc gia, Nxb. Văn hóa Văn nghệ, An Giang. 5. Đinh Gia Khánh, Lê Hữu Tầng (chủ biên) (1994), Lễ hội truyền thống trong đời sống xã hội hiện đại, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội. 6. Lê Hồng Lý (chủ biên) (2010), Giáo trình quản lý di sản văn hóa với phát triền du lịch, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội. 7. Đổng Ngọc Minh, Vương Lôi Đình (chủ biên) (2001), Kinh tế du lịch & Du lịch học, Nxb. Trẻ, Hà Nội. 8. Nhiều tác giả (2014), Di sản văn hóa trong xã hội Việt Nam đương đại, Nxb. Tri thức, Hà Nội. 9. Tô Ngọc Thanh (2003), “Di sản văn hóa trong cơ chế thị trường”, Tạp chí Nguồn sáng dân gian, số 3. 10. Ngô Đức Thịnh (1993), “Những giá trị văn hóa của lễ hội cổ truyền và nhu cầu của xã hội hiện đại”, Tạp chí Nghiên cứu Văn hóa Nghệ thuật, số 1. 11. Minh Thư (2016), “Biển người đổ về kẹt cứng Miếu bà Núi Sam”, Báo Dân Trí, https://dant- ri.com.vn/xa-hoi/bien-nguoi-do-ve-ket-cung- mieu-ba-nui-sam-2016021115551915.htm 12. Tri thức trẻ (2016), “Với 8.000 lễ hội một năm, trung bình mỗi ngày người Việt có 22 lễ hội, mỗi giờ có 1 lễ hội”, voi-8000-le-hoi-moi-nam-trung-binh-moi- ngay-nguoi-viet-co-22-le-hoi-moi-gio-co-1-le- hoi-20160421143503586.chn 13. Trần Quốc Vượng (2001), Văn hóa Việt Nam tìm tòi và suy ngẫm, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội. Ngày nhận bài: 14 - 3 - 2020 Ngày phản biện, đánh giá: 20 - 3 - 2020 Ngày chấp nhận đăng: 25 - 3 - 2020
File đính kèm:
- le_hoi_dan_gian_va_su_phat_trien_du_lich_hien_nay.pdf