Hoạt động thương mại của người Nhật ở Đông Dương từ cuối thế kỷ XIX đến năm 1945
Từ cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, Nhật Bản đẩy mạnh hoạt động thương mại và đầu tư vào Đông
Nam Á trong đó có Đông Dương thuộc Pháp. Vốn là một tiểu vùng có tài nguyên thiên nhiên
phong phú và thị trường tiêu thụ đầy tiềm năng, Đông Dương đã trở thành điểm sáng thu hút
các thương nhân và doanh nghiệp Nhật Bản. Thương nhân Nhật Bản đã có mặt tại Đông Dương
thuộc Pháp từ cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX cùng với sự bùng nổ của làn sóng di dân sang các nước
Đông Nam Á từ cuối thời kỳ Minh Trị. Trong giai đoạn đầu, số lượng các thương nhân Nhật tại Đông
Dương tương đối ít và chủ yếu kinh doanh trong lĩnh vực xuất nhập khẩu hoặc mua bán tạp hoá.
Bên cạnh các thương nhân, từ những năm đầu thế kỷ XX, các tập đoàn kinh tế và công ty của Nhật
Bản đã bắt đầu mở văn phòng đại diện hoặc chi nhánh tại Đông Dương như Mitsui, Mitsubishi,
Menka với lĩnh vực kinh doanh chính là thu mua lúa gạo và than đá. Tuy nhiên, hoạt động thương
mại của người Nhật ở Đông Dương trong khoảng thời gian từ đầu thế kỷ XX đến nửa sau những
năm 1930 có rất nhiều hạn chế do nhiều nguyên nhân khác nhau. Từ cuối những năm 1930 đầu
những năm 1940, cùng với việc thúc đẩy chính sách nam tiến về mặt thương mại của Nhật Bản đối
với khu vực Đông Nam Á và đặc biệt là việc quân đội Nhật Bản tiến vào Đông Dương, các thương
nhân và doanh nghiệp Nhật đã tăng cường sự hiện diện và mở rộng hoạt động thương mại ở khu
vực này, góp phần thúc đẩy sự phát triển nền kinh tế ngoại thương của Đông Dương cũng như
mối quan hệ thương mại giữa Nhật Bản và Đông Dương. Bằng việc sử dụng phương pháp lịch sử
và logic trong quá trình nghiên cứu mà cụ thể là căn cứ vào bối cảnh lịch sử trong từng giai đoạn
cụ thể để phân tích những hoạt động thương mại của các thương nhân và các công ty Nhật Bản ở
Đông Dương, bài viết hướng tới việc đánh giá một cách logic và có hệ thống những đặc điểm nổi
bật đáng chú ý trong hoạt động thương mại của người Nhật ở tiểu vùng này
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Tóm tắt nội dung tài liệu: Hoạt động thương mại của người Nhật ở Đông Dương từ cuối thế kỷ XIX đến năm 1945
ng Yokohama đã mở chi nhánh tại Sài Gòn công nghiệp (17 triệu yên), tàu thuyền (16 triệu yên), vào tháng 4 năm 1920. Để đảm bảo cho các hoạt động giao thông đường bộ (8 triệu yên), khai khoáng (6 trong chi nhánh được thuận lợi, vào tháng 7 và tháng triệu yên), thuỷ hải sản (1 triệu yên), vận tải đường 12 hàng năm, Ngân hàng Yokohama đều cử nhân viên đến chi nhánh Sài Gòn làm việc và những người này biển (1 triệu yên), các ngành khác (5 triệu yên). Tỷ lệ thường nắm giữ chức vụ thư ký và quản lý. Từ năm vốn đầu tư của Nhật Bản phân theo lĩnh vực được thể 1927 đến 1930 Ngân hàng Yokohama đã cử 125 nhân hiện theo Hình 1. viên đến Sài Gòn làm việc trong đó có 38 thư ký và 87 Với những thuận lợi có được từ Hiệp ước Tokyo ngày quản lý [ 17, tr. 109]. Bên cạnh ngân hàng của người 6/5/51941 giữa Pháp và Nhật quy định về các quyền Nhật, các ngân hàng của Trung Quốc cũng lập các chi lợi của các công ty Nhật Bản tại Đông Dương, số nhánh của mình ở Sài Gòn như Ngân hàng Hoa Nam lượng các công ty tăng lên nhanh chóng đặc biệt là có trụ sở chính đóng tại Đài Loan. Vào năm 1929 do ở Sài Gòn Chợ Lớn, Hà Nội, Hải Phòng (Bảng 4). Vào ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới nên năm 1943, riêng ở Nam Kỳ, trung tâm kinh tế quan các ngân hàng này đều bị đóng cửa do bị thua lỗ. trọng nhất của Đông Dương, có 106 công ty Nhật Bản hoạt động trong đó có 88 công ty chuyên về xuất nhập Đánh giá về hoạt động thương mại của công khẩu hàng hoá, 9 công ty chuyên về sản xuất công ty Nhật Bản tại Đông Dương nghiệp, 9 công ty chuyên về vận tải đường biển và 1 Hoạt động của các công ty Nhật Bản ở Đông Dương công ty chuyên về vận tải đường bộ [ 15, tr.71]. có những đặc điểm nổi bật như sau: 923 Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Khoa học Xã hội và Nhân văn, 5(1):919-927 Hình 1: Sơ đồ đầu tư của công ty Nhật tại Đông Dương vào cuối năm 1944 [ 14, tr.117] Bảng 4: Các công ty thương mại Nhật Bản ở Đông Dương vào đầu những năm 1940 [ 16, tr. 118 - 119] Loại hàng hoá Hà Nội Sài Gòn Chợ lớn Hải Phòng Dệt, sản xuất tơ sợi, may Dainan Koshi, Kikuchi Dainan Koshi, Yuasa Shinomura Yoko, Tajima mặc, kim chỉ, đồ da Shikko, Tajima Yoko, Koshi, Yagi Koshi, Han- Yoko, Dainan Koshi, Shinomura Yoko, hatsu Koshi, Okasaki Kikuchi Shikko, Shoten Máy móc, dụng cụ gia đình, Dainan Koshi, Fuue Yoko, Mitsui Bussan, Dainan Daiwa Shokai, Kikuchi đồ điện gia dụng, hoá chất, Kikuchi Shikko,Saito Koshi, Morise Shokai, Shikko, Fuue Yoko, Saito sơn sống, phân bón, khai Urushi Ten, Shinomura Okamoto Yoko, Tajima Ureshi Ten, Yamada Karo, khoáng Yoko, Yamada Karo, Yoko, Yasuda Yoko, Shinomura Yoko Daiwa Shokai Miyazaki Shoten Giấy, bút Dainan Koshi, Soibudo Koshi Thựchẩm p Dainan Koshi, Kikuchi Dainan Koshi, Morise Kikuchi Shikko, Shino- Shikko, Shinomura Yoko, Shokai, mura Yoko, Yasuda Yoko, Yasuda Yoko Kontai Koshi, Nomura Dainan Koshi Shokusan Boeki Kabushiki Kaisha Dược phẩm Dainan Koshi Xe đạp, các phụ tùng tự Morise Shokai, động Dainan Koshi, Yuasa Koshi Tạp phẩm Dainan Koshi, Fuue Yoko, Mitsui Bussan, Dainan Yasuda Yoko, Yamada Kikuchi Shikko, Shino- Koshi, Saito Shoten, Karo, Kikuchi Shikko, mura Yoko, Yamada Karo, Morise Shokai, Shioda Shinomura Yoko, Daiwa Daiwa Shokai, Yasuda Shokai Shokai Yoko 924 Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Khoa học Xã hội và Nhân văn, 5(1):919-927 Thứ nhất, ngay từ khi đặt chân đến Đông Dương, các động thương mại. Chính phủ Nhật đã chỉ định cho công ty Nhật Bản luôn phải đối mặt với những khó các công ty như Mitsui, Dainan, Murakami, Namba, khăn từ chính sách độc quyền về nội thương lẫn ngoại Akatsuya, Mitsubishi thu mua và nắm giữ toàn bộ gạo, thương của Pháp và sự cạnh tranh gay gắt của người bắp, ngũ cốc của Đông Dương và chuyển trực tiếp Hoa. Bên cạnh đó, khác với các nước như Đông Ấn cho các tàu hải quân Nhật đang tham gia chiến tranh. Hà Lan, Malaya thuộc Anh, các công ty Nhật Bản tại Bên cạnh đó, các công ty Nhật tại Đông Dương còn bị Đông Dương không nhận được sự hỗ trợ tích cực từ chính phủ sử dụng như công cụ để quản lý hoạt động chính phủ Nhật Bản do quan hệ Nhật Bản - Pháp nội thương và ngoại thương của Đông Dương. Ví dụ không tốt như quan hệ Nhật Bản - Hà Lan hay Nhật như ở khu vực Nam Kỳ của Đông Dương, công ty Bản - Anh. Mãi cho đến những năm 1940 chính phủ Daido Boeki được chỉ định quản lý và phân phối toàn Nhật Bản mới hỗ trợ cho sự tiến xuất của các công ty bộ các sản phẩm tơ sợi nhập khẩu tại Đông Dương. tại Đông Dương thông qua viện trợ cho sự hoạt động Mỗi nhà nhập khẩu phải khai rõ số lượng tơ sợi nhập của ”10 công ty Nam Tiến” chuyên về nhập khẩu hay khẩu cho công ty Daido Boeki và công ty này được độc còn có tên gọi khác là “Tổ hợp các công ty nhập khẩu quyền về tiêu thụ. Danh sách các cơ sở bán lẻ tơ sợi tại Đông Dương” [ 4, tr. 83] do chính chính phủ Nhật được công ty Daido boeki phân phối tại Đông Dương Bản tuyển chọn. đều phải được chính phủ Nhật Bản xét và phê duyệt Thứ hai, dưới áp lực từ chính quyền Pháp ởĐông [ 11, tr.149]. Dương cũng như sự cạnh tranh gay gắt của các thương nhân người Hoa, các công ty Nhật Bản tại Đông KẾT LUẬN Dương sử dụng rất nhiều cách thức kinh doanh khôn Từ cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, cùng với sự phát khéo như dùng hàng hóa nhập từ Nhật đổi lấy hàng triển của mối quan hệ thương mại giữa Nhật Bản và hóa nội địa của người sản xuất hoặc người thu mua các nước Đông Nam Á, các thương nhân và công ty rồi mang bán lại với giá cao, sử dụng những nguyên Nhật Bản cũng đã tiến vào khu vực Đông Dương. liệu nhập khẩu từ Nhật để chế biến sản phẩm ngay tại Trong giai đoạn trước những năm 1930, hoạt động Đông Dương, tiến công thương mại vào vùng nông thương mại của người Nhật ở Đông Dương không thôn của các địa phương với việc thiết lập mạng lưới phát triển mạnh mẽ như ở các nước Đông Nam các đại lý, cửa hàng đại diện của người Nhật để thay Á khác như Đông Ấn Hà Lan, Malaya thuộc Anh, thế cho mạng lưới phân phối của người Pháp và Hoa. Philippines do những rào cản trong chính sách kinh Thứ ba, khi Chiến tranh Thế giới Thứ 2 bùng nổ vớisự tế khắt khe của thực dân Pháp cũng như sự cạnh tranh tham gia của Nhật Bản, các nước như Anh, Hà Lan, của các thương nhân Hoa kiều và phương Tây. Hoạt Mĩ đã thực hiện chính sách cấm vận đối với Nhật Bản động thương mại của các thương nhân và công ty mà đặc biệt là cấm xuất khẩu các mặt hành quan trọng Nhật Bản tại Đông Dương từ giữa những năm 1930 đã như thiếc, cao su, sắt thép cho Nhật. Đông Dương có sự phát triển cả về lượng lẫn về chất so với giai đoạn trở thành nơi duy nhất có thể cung cấp những mặt trước đó. Tuy sự gia tăng không ngừng về số lượng hàng mà Nhật Bản đang cần. Do đó, trong giai đoạn và hoạt động của các thương nhân và doanh nghiệp 1941 - 1945, các công ty xuất nhập khẩu của Nhật có Nhật Bản đã góp phần thúc đẩy sự phát triển của sự phát triển mạnh mẽ hơn giai đoạn trước đó. Bên nền kinh tế Đông Dương cũng như quan hệ thương cạnh đó, nhiều công ty của Nhật còn tìm cách tấn công mại giữa Nhật Bản và Đông Dương nhưng thực tế chỉ vào các ngành sản xuất công nghiệp, thủ công nghiệp, mang đến lợi ích cho chính Nhật Bản chứ không phải xây dựng, những lĩnh vực vốn thuộc về độc quyền của cho người dân bản xứ. Sự hiện diện của các thương người Pháp và người bản xứ. Đến năm 1944 các công nhân và công ty Nhật ở Đông Nam Á vẫn tiếp tục tồn ty lớn của Nhật đã kiểm soát hầu như toàn bộ các nhà tại khi cuộc Chiến tranh Thế giới thứ hai diễn ra và máy xay gạo, nhà máy nấu đường, xưởng sản xuất mỹ chỉ thực sự biến mất sau khi Nhật Bản bị bại trận. nghệ, cơ sở sản xuất gỗ, nhà máy chế biến hải sản, cơ Tuy nhiên, sau khi Chiến tranh Thế giới thứ hai kết sở khai thác lâm sản... ở Đông Dương. Với những thúc, Nhật Bản đã phục hồi một cách nhanh chóng và thành công đó, giới doanh nghiệp Nhật đã thâu tóm một lần nữa các thương nhân và công ty Nhật lại tiến hầu như toàn bộ nền nội thương lẫn ngoại thương của vào các nước Đông Dương. Do đó có thể nói những Đông Dương [ 18, tr. 122] bước ”Nam tiến” về mặt thương mại của người Nhật Thứ tư, trong những năm 1941 - 1945, hoạt động ở Đông Dương trong giai đoạn trước Chiến tranh của các công ty Nhật Bản tại Đông Dương bị chính Thế giới thứ hai đã cung cấp những tiền đề hết sức phủ quân phiệt và quân đội lợi dụng để phục vụ cho quan trọng cho việc thực hiện chính sách ”ngoại giao chiến tranh. Các công ty được xem là bàn đạp để kinh tế” cũng như hoạt động của các thương nhân và tấn công vào Đông Dương thông qua đầu tư và hoạt doanh nghiệp Nhật tại Đông Dương trong giai đoạn 925 Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Khoa học Xã hội và Nhân văn, 5(1):919-927 sau Chiến tranh Thế giới thứ hai và cả trong giai đoạn second world war. Waseda University Institute of Asia Pacific hiện nay. Studies. 2017;p. 209 –222. 6. Kiichi Y. Tổng quan về Nam Dương. Tokyo: Heibonsha. 1934;. 7. Isao T. Nguồn gốc và chiến lược của các công ty Nhật Bản ở LỜI CẢM ƠN Đông Nam Á trong giai đoạn trước chiến tranh thế giới thứ 2. Nghiên cứu được tài trợ bởi Đại học Quốc gia Thành Tokyo: Dobunkan. 2017;. 8. Yuyama E. Japanese merchants’ activities in French Indochina phố Hồ Chí Minh (ĐHQG - HCM) trong khuôn khổ - A Study of the lacquer trade. Vietnam - Indochina - Japan re- đề tài mã số C2019-18b-08. lations during the second world war. Waseda University Insti- tute of Asia Pacific Studies. 2017;p. 197–208. TUYÊN BỐ XUNG ĐỘT LỢI ÍCH 9. Tomokazu O. Cư dân ở các phố phường Hà Nội thời kỳ thuộc địa - tầng lớp tiểu thương trong những năm 1930. Tạp chí Bản thảo này không có xung đột lợi ích. Nghiên cứu Châu Á. 2015;(05):87–114. 10. Fusaji T. Công ty Dainan và phong trào dân tộc của Việt TUYÊN BỐ ĐÓNG GÓP CỦA TÁC GIẢ Nam thời chiến: sự ra đời của công ty chủ nghĩa châu Á tại Đông Dương. Tạp chí nghiên cứu văn hoá Đông Dương. - Sưu tầm, khai thác những tư liệu mới về tiến trình 2017;(19):357–398. tiếp cận, triển khai và phát triển các hoạt động thương 11. Quang NP. Tương quan kinh tế Pháp - Nhật tại Nam Kỳ 1940 - 1945. Sự hiện diện của người Nhật ở miền Nam Việt Nam trong mại của người Nhật ở khu vực Đông Dương giai đoạn giai đoạn lịch sử 1940 - 1945. ĐHQG TP.HCM.1998;p. 125–157. từ cuối thế kỷ XIX đến năm 1945. Các tư liệu được 12. Kyoichi T. Nhật Bản và phong trào giành độc lập của Việt Nam khai thác và sử dụng được viết bằng các ngôn ngữ như trong thời kỳ Chiến tranh Thế giới thứ 2. Kỷ yếu Viện Nghiên cứu Quốc Phòng. 2000;3:67–88. tiếng Việt, tiếng Anh, tiếng Nhật và đều là những tư 13. Cục điều tra kinh tế Đông Á - Đường sắt Nam Mãn Châu. Người liệu đáng tin cậy. Hoa ở Đông Dương. 1939;. 14. Yukichika T. Kế hoạch thực dân hoá của Nhật Bản đối với Đông - Góp phần làm sáng tỏ một thời kỳ quan trọng trong Dương và thực trạng của nó. Tạp chí nghiên cứu Đông Nam Á lịch sử quan hệ kinh tế thương mại giữa Nhật Bản và - Lịch sử và Văn hoá. 1980;(9):103 –133. Đông Dương (từ cuối thế kỷ XIX đến 1945), một thời 15. Nghiêm ĐH. Biến động xã hội ở Nam Kỳ dưới tác động của người Nhật 1940 - 1945. Sự hiện diện của người Nhật ở miền kỳ mà chưa được nghiên cứu và đề cập nhiều trong Nam Việt Nam trong giai đoạn lịch sử 1940 - 1945. ĐHQG giới học thuật ở Nhật Bản và Đông Nam Á. TP.HCM. 1998;p. 45–88. 16. Hiệp hội thương mại Nhật Bản. Đông Dương thuộc Pháp và TÀI LIỆU THAM KHẢO tình hình thương mại. Tokyo: Hiệp hội thương mại Nhật Bản. 1941;. 1. Shinya S. Sự cọ sát về kinh tế của Đông Nam Á thời chiến. 17. Eiko Y. Hoạt động của các công ty Nhật Bản ở Indochina - Khảo Tokyo: Dobunkan. 1990;. sát từ việc cử nhân viên đến Indochina của công ty Mitsui và 2. Cục thống kê Nhật Bản. Thống kê trường kỳ Nhật Bản. Tokyo: Mitsubishi từ năm những1920 đến đầu những năm 1940. Tạp Cục thống kê Nhật Bản. 1988;. chí nghiên cứu kinh tế học Đại học Hokaido. 2013;62(3):107 3. Hiệp hội Nam Dương. Bảng biểu thống kê mậu dịch Nam –121. Dương. Tokyo: Hyoron. 1943;. 18. Ngọc TTB. Sự hiện diện của người Nhật ở Nam Kỳ- Tác động 4. Yasuyuki H. Khối thịnh vượng chung Nam Phương.Tokyo: về mặt kinh tế (1940 - 1945). Sự hiện diện của người Nhật ở Taga. 1995;. miền Nam Việt Nam trong giai đoạn lịch sử 1940 - 1945. ĐHQG 5. Dung NM. Japanese in Tokin during the first half of twenti- TP.HCM. 1998;p. 90 –125. eth century. Vietnam - Indochina - Japan relations during the 926 Science & Technology Development Journal – Social Sciences & Humanities, 5(1):919-927 Open Access Full Text Article Research Article Japanese commercial activities in French Indochina from the late 19thcentury to 1945 Huynh Phuong Anh* ABSTRACT From the late 19th century to the early 20th century, Japan promoted trade and investment in Southeast Asia, including French Indochina. As a subregion with an abundance of natural resources Use your smartphone to scan this and potential consumption market, Indochina became an attractive destination for Japanese mer- QR code and download this article chants and companies. The Japanese merchants moved into French Indochina from the end of the 19th century and the early 20th century together with the great surge of Japanese immigration to Southeast Asian countries since the end of the Meiji period. In the first phase, the number of Japanese merchants in Indochina was relatively small and mainly engaged in importing and ex- porting activities or grocery trading. In addition to merchants, Japanese economic zaibatsu and companies started to open representative offices or branches in Indochina such as Mitsui Bussan, Mitsubishi, Menka which focused on purchasing rice and coal. However, from the early 20th cen- tury to the late 1930s, commercial activities of Japanese merchants and companies in Indochina were restricted due to various reasons. From the late 1930s to the 1940s, along with Japanese com- mercial policy towards Southeast Asia, especially the entry of Japanese military into Indochina, the Japanese merchants and companies expanded their commercial activities in this region, through which the great impacts were put upon foreign trade activities in Indochina as well as the commer- cial relationship between Japan and Indochina. Key words: Japan, French Indochina, Japan - Indochina, Commercial activity University of Social Sciences & Humanities, VNU-HCM Correspondence Huynh Phuong Anh, University of Social Sciences & Humanities, VNU-HCM Email: phuonganhjps@hcmussh.edu.vn History • Received: 03/06/2020 • Accepted: 12/3/2021 • Published: 31/3/2021 DOI : 10.32508/stdjssh.v5i1.646 Copyright © VNU-HCM Press. This is an open- access article distributed under the terms of the Creative Commons Attribution 4.0 International license. Cite this article: Anh H P. Japanese commercial activities in French Indochina from the late 19thcentury to 1945 . Sci. Tech. Dev. J. - Soc. Sci. Hum.; 5(1):919-927. 927
File đính kèm:
- hoat_dong_thuong_mai_cua_nguoi_nhat_o_dong_duong_tu_cuoi_the.pdf