Hiệu quả kinh tế sản xuất rừng trồng ở một số xã huyện Cam Lộ, tỉnh Quảng Trị

Nghiên cứu nhằm xác định hiệu quả kinh tế sản xuất rừng trồng tại 3 xã Cam

Chính, Cam Nghĩa, Cam Thành thuộc huyện Cam Lộ, tỉnh Quảng Trị. Bài báo sử

dụng công thức xác định hiệu quả kinh tế của rừng trồng thông qua giá trị thu

nhập hỗn hợp mà các hộ gia đình đạt được. Thông qua nghiên cứu và phỏng vấn

đối với những người dân tham gia trồng rừng đã xác định bình quân mỗi ha rừng

trồng sau mỗi chu kỳ kinh doanh kéo dài 5 năm, tại xã Cam Chính thu nhập hổ

hợp đạt 80,280 triệu đồng, xã Cam Nghĩa đạt 50,833 triệu đồng và xã Cam Thành

đạt 74, 806 triệu đồng. Kết quả nghiên cứu cung cấp cơ sở cho các phân tích tiếp

theo về hiệu quả của việc trồng rừng tại khu vực huyện Cam Lộ đối với phát triển

kinh tế cho người dân trong những giai đoạn hiện nay.

Hiệu quả kinh tế sản xuất rừng trồng ở một số xã huyện Cam Lộ, tỉnh Quảng Trị trang 1

Trang 1

Hiệu quả kinh tế sản xuất rừng trồng ở một số xã huyện Cam Lộ, tỉnh Quảng Trị trang 2

Trang 2

Hiệu quả kinh tế sản xuất rừng trồng ở một số xã huyện Cam Lộ, tỉnh Quảng Trị trang 3

Trang 3

Hiệu quả kinh tế sản xuất rừng trồng ở một số xã huyện Cam Lộ, tỉnh Quảng Trị trang 4

Trang 4

Hiệu quả kinh tế sản xuất rừng trồng ở một số xã huyện Cam Lộ, tỉnh Quảng Trị trang 5

Trang 5

Hiệu quả kinh tế sản xuất rừng trồng ở một số xã huyện Cam Lộ, tỉnh Quảng Trị trang 6

Trang 6

Hiệu quả kinh tế sản xuất rừng trồng ở một số xã huyện Cam Lộ, tỉnh Quảng Trị trang 7

Trang 7

Hiệu quả kinh tế sản xuất rừng trồng ở một số xã huyện Cam Lộ, tỉnh Quảng Trị trang 8

Trang 8

Hiệu quả kinh tế sản xuất rừng trồng ở một số xã huyện Cam Lộ, tỉnh Quảng Trị trang 9

Trang 9

Hiệu quả kinh tế sản xuất rừng trồng ở một số xã huyện Cam Lộ, tỉnh Quảng Trị trang 10

Trang 10

pdf 10 trang xuanhieu 3420
Bạn đang xem tài liệu "Hiệu quả kinh tế sản xuất rừng trồng ở một số xã huyện Cam Lộ, tỉnh Quảng Trị", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Hiệu quả kinh tế sản xuất rừng trồng ở một số xã huyện Cam Lộ, tỉnh Quảng Trị

Hiệu quả kinh tế sản xuất rừng trồng ở một số xã huyện Cam Lộ, tỉnh Quảng Trị
g vấn trực tiếp chủ hộ bằng các câu hỏi đã được chuẩn bị trước và in sẵn. 
Để thực hiện đánh giá, bài báo đã phỏng vấn số mẫu được chọn ngẫu nhiên ở 3 xã 
(Cam Chính, Cam Nghĩa, Cam Thành) là 850 phiếu điều tra. Dựa vào tỷ lệ mẫu đạt ≥ 
50% để tính toán số phiếu điều tra ở mỗi xã nhằm đảm bảo được mức độ chính xác khi 
tiến hành đánh giá và cho ra kết quả nghiên cứu. 
 Tổng hợp từ 850 phiếu điều tra các hộ gia đình có rừng của 3 xã với tổng số 
nhân khẩu trung bình là 4,99 người trong đó tổng số lao động trung bình là 3,28 người. 
Nhìn chung, có thể thấy khu vực các hộ có nguồn lao động tương đối dồi dào phục vụ 
 161 
Hiệu quả kinh tế sản xuất rừng trồng ở một số xã huyện Cam Lộ, tỉnh Quảng Trị 
cho công tác quản lý rừng trồng dựa vào cộng đồng ở hiện tại cũng như trong tương 
lai. 
 Đối tượng tiến hành phỏng vấn là cán bộ huyện bao gồm: 1 cán bộ Hạt Kiểm 
Lâm, 1 cán bộ phòng tài nguyên và môi trường, 1 cán bộ phòng nông nghiệp và phát 
triển nông thôn, 1 cán bộ UBND xã để thu thập các thông tin về tình hình quản lý rừng 
trên địa bàn huyện, kế hoạch giao rừng và cấp giấy chứng nhận quy hoạch quyền sử 
dụng đất – sử dụng rừng cho cộng đồng 
 Bên cạnh đó, đối tượng được phỏng vấn chính là hộ gia đình của thôn hoặc của 
xã, ưu tiên phỏng vấn các hộ có diện tích rừng tương đối lớn. 
b. Phương pháp đánh giá hiệu quả kinh tế 
 Để tính toán hiệu quả kinh tế trên một ha rừng dựa vào một số chỉ tiêu sau: 
 - Giá trị sản xuất (GTSX): Là toàn bộ giá trị sản phẩm vật chất và dịch vụ được 
sản xuất ra trong thời gian nhất định (một vụ, một năm). Công thức tính: 
 GTSX= Qi * Pi 
 Trong đó: Qi là khối lượng sản phẩm loại i 
 Pi là đơn giá sản phẩm i 
 - Chi phí trung gian (CPTG): Là toàn bộ chi phí vật chất quy ra tiền sử dụng 
trực tiếp cho quá trình khai thác, bảo vệ rừng. Đối với các hộ trồng rừng thì chi phí 
trung gian là yếu tố quan trọng quyết định đến kết quả sản xuất và doanh thu sau này 
của các hộ. Đó là các khoản chi phí cho phát thực bì, đào hố, bón phân, cây giống 
Việc sử dụng vốn đầu tư hợp lý để chi trả cho các chi phí này ít hay nhiều phụ thuộc 
vào điều kiện, đất đai, thổ nhưỡng, trình độ, khả năng tài chính của mỗi hộ. 
 - Giá trị gia tăng (GTGT): Là hiệu số giữa giá trị sản xuất và giá trị trung gian, là 
giá trị sản phẩm xã hội được tạo ra thêm trong thời kỳ sản xuất đó. 
 GTGT = GTSX – CTTG 
 - Thu nhập hỗn hợp (TNHH): Là phần thu nhập thuần túy bao gồm cả công lao 
động của gia đình tham gia sản xuất. 
 TNHH = GTGT – Khấu hao – Thuế 
3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 
 Đối với hoạt động trồng rừng sản xuất trên địa bàn xã thì những loại cây được 
trồng là cây keo tai tượng, keo lai hom, keo lai  nhưng keo lai chiếm 90% tổng diện 
tích lâm nghiệp vì đây là loại cây sinh trưởng và phát triển nhanh, thích hợp với nhiều 
loại đất, đặc biệt là có thể sống được với điều kiện khí hậu khắc nghiệt, đất đai khô cằn 
 162 
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, Trường Đại học Khoa học, ĐH Huế Tập 17, Số 2 (2020) 
nhưng lại cho năng suất cao hơn các loại cây khác. Do đó, cây keo lai được áp dụng 
trồng thay thế những cây trồng năng suất thấp và đã tiến hành khai thác keo lai hiệu 
quả mang lại năng suất cao và đáp ứng nhu cầu cộng đồng tại khu vực. 
 Xét trên một đơn vị diện tích (ha), một ha rừng trồng 5 tuổi tại khu vực nghiên 
cứu, có giá thu mua gỗ là 1.250.000đ/tấn. Chi phí đầu tư cho canh tác rừng thể hiện: 
 Bảng 1. Chi phí đầu tư cho một chu kỳ trồng và khai thác rừng (tính bình quân cho 1 ha) 
 ĐVT: 1000đ 
 CAM CHÍNH CAM NGHĨA CAM THÀNH 
 CHI PHÍ Cơ cấu Cơ cấu Cơ cấu 
 Số lượng Số lượng Số lượng 
 (%) (%) (%) 
TỔNG CHI PHÍ 33,631.8 100 34,578.6 100,0 35,603.5 100 
I. Chi phí trồng 12,926.3 38,4 13,020.6 37,6 13,802.5 38,7 
1. Chi phí trung gian 10,476.5 78,4 10,621.8 81,5 11,267.5 81.6 
- Phát thực bì 450.5 4,3 450.9 4,2 463.2 4,1 
- Trồng 880.3 8,4 890.0 8,3 890.3 7,9 
- Giống 1,494.1 14,2 1,614.0 15,1 1,524.3 13,5 
- Phân bón 3,320 31,6 3,322.7 31,2 3,458.2 30,6 
- Thuê lao động 2,586 24,6 2,545 23,9 2,686 23,8 
- Phí khác 1,745.6 16,6 1,760.8 16,5 1,830.8 16,2 
2. Chi phí tự có (bảo 
vệ, công chăm sóc, phí 2,449.8 18,9 2,398.8 18,4 2,235 16,1 
khác) 
II. Tổng chi phí khai 
 20,705.5 61,5 21,558 62,3 21,801.1 61,2 
thác 
1. Chi phí trung gian 19,655.2 94,9 20,008 92,8 20,746.1 95,1 
- Làm đường 1,455.2 7,4 1,412 7,0 1,200 5,7 
- Khai thác 8,117 41,2 8,564 42,8 8,996 43,4 
- Vận chuyển 10,083 51,3 10,032 50,1 10,250.1 49,4 
2. Chi phí tự có (Phí 
 1,050.3 5,0 1,550 7,1 1,355 6,5 
khác, bảo vệ) 
 (Nguồn: Điều tra phỏng vấn) 
 Quan sát quá trình trồng có thể thấy, các cây lâm nghiệp có thời gian từ lúc 
trồng đến khi thu hoạch tương đối dài, vì vậy chi phí cho cả chu kỳ này rất lớn. Tổng 
chi phí trồng rừng và chi phí khai thác gỗ ở xã Cam Chính là 33, 631 triệu đồng/hộ; 
Cam Nghĩa là 34.578,6 triệu đồng/hộ; Cam Thành 35.603,5 triệu đồng/hộ bình quân cho 
một ha keo trong thời gian 5 năm. Khoản chi phí này bao gồm hai giai đoạn chính là 
giai đoạn trồng và giai đoạn khai thác. 
 Tại xã Cam Chính, chi phí trồng rừng được nhận thấy ít nhất là 12,926.3 triệu 
đồng chiếm 38,4% tổng chi phí; còn xã Cam Nghĩa và Cam Thành với tổng chi phí 
trồng rừng trung bình tiêu tốn tương đương nhau. Trong khi đó, chi phí khai thác gỗ 
 163 
Hiệu quả kinh tế sản xuất rừng trồng ở một số xã huyện Cam Lộ, tỉnh Quảng Trị 
tại xã Cam Thành nhiều nhất với trung bình 21,801.1 triệu đồng chiếm 61,2% tổng chi 
phí. 
 Chi phí trung gian trong quá trình trồng rừng, gồm có chi phí phân bón chiếm 
nhiều nhất ở cả 3 xã, xã Cam Thành 3,458.2 triệu đồng chiếm 30,6% tổng chi phí, xã 
Cam Nghĩa là 3,322.7 triệu đồng chiếm 31,2% tổng chi phí và xã Cam Chính là 3,320 
triệu đồng, chiếm 31,6% tổng chi phí trung gian. Điều này, có thể được giải thích bởi 
giai đoạn trồng thông thường thì nông dân phải bón phân nhiều. Tại khu vực, quá 
trình canh tác người dân thường bón phân lúc bắt đầu trồng và bón thêm một lần nữa 
vào thời kỳ chăm sóc nên làm cho chi phí này cao hơn. Còn các khoản chi phí như xử 
lý thực bì, đào hố, giống, thuê lao động tương đối đồng đều nhau. 
 Chi phí khai thác cũng là một khoản phí khá lớn, tổng chi phí để khai thác một 
ha keo ở mỗi xã: Cam Chính là 20,705 triệu đồng chiếm 61,5% tổng chi phí; xã Cam 
Nghĩa là 21,558 triệu đồng chiếm 62,3% tổng chi phí và xã Cam Thành là 21,801 triệu 
đồng, chiếm 61,2% tổng chi phí. Trong đó, chi phí trung gian trong khai thác của xã 
Cam Nghĩa là nhiều nhất 20,746 triệu đồng, chiếm 95,1% tổng chi phí trung gian, lý do 
giải thích ở đây là nơi sản xuất khá xa các nhà máy chế biến và nơi tiêu thụ sản phẩm, 
nên người dân phải tốn nhiều chi phí cho việc làm đường, khai thác và vận chuyển các 
sản phẩm. Bên cạnh đó, giá xăng dầu tăng mạnh cũng là một trong những nguyên 
nhân làm cho chi phí vận chuyển cao hơn. Khi cây trồng đã đến thời kỳ thu hoạch để 
cho ra khối lượng sản phẩm gỗ keo thì khâu khai thác cũng rất quan trọng, khâu này 
bao gồm các giai đoạn: cưa cây, cắt khúc, bóc vỏ, vận chuyển lên xe. Hoạt động trồng 
keo diễn ra ở những vùng gò đồi, giao thông đi lại khó khăn, do đó để thuận lợi cho 
khai thác thì cần mở đường cho các phương tiện vận chuyển có thể đến tận nơi để chở 
hàng. Đối với những vườn keo ở xa hoặc nằm ở những vùng khó khăn đi lại thì phải 
thuê máy múc để mở đường. Chi phí làm đường tại xã Cam Thành 1,200 triệu đồng, 
chiếm 5,7% chi phí trung gian. 
 Trong quá trình trồng ngoài việc phải thuê thêm lao động thì hộ đã sử dụng lao 
động sẵn có của gia đình vào việc trồng cây và chăm sóc nên được tính vào phần chi 
phí tự có. Chi phí tự có ở giai đoạn trồng tiêu tốn nhiều hơn chi phí tự có ở giai đoạn 
khai thác, phần chi phí tự có ở giai đoạn trồng của xã Cam Chính tiêu tốn nhiều nhất 
trong khu vực nghiên cứu là 2,449.8 triệu đồng, chiếm 18,9% trong tổng chi phí trồng, 
điều này có nghĩa là công bỏ ra của hộ gia đình để trồng cây, chăm sóc, bảo vệ và các 
tư liệu sản xuất có sẳn trong gia đình ở xã này là tiêu tốn nhiều nhất. Khoản chi phí 
này càng lớn, việc sử dụng lao động tự có làm giảm khoản chi phí mà hộ phải thuê lao 
động. Phần chi phí tự có giai đoạn khai thác của xã Cam Thành tốn nhiều nhất 1,550 
triệu đồng, chiếm 7,1% tổng chi phí khai thác, trong khai thác các hộ chủ yếu sử dụng 
hình thức khoán lao động nên chi phí tự có này là chi phí quản lý khai thác, phí bảo vệ 
sản phẩm. 
 164 
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, Trường Đại học Khoa học, ĐH Huế Tập 17, Số 2 (2020) 
 Năm 2019, với diện tích khai thác gỗ tính trung bình của mỗi xã là 1 ha và mức 
thuế canh tác rừng mà mỗi hộ gia đình canh tác phải nộp cho cơ quan Nhà nước là 
150.000đ/ha/năm. Hiệu quả kinh tế được tính toán và thể hiện thông qua bảng sau: 
 Bảng 2. Hiệu quả kinh tế của rừng trồng tại khu vực nghiên cứu năm 2019 
 Trữ lượng Giá trị sản Giá trị trug Giá trị gia Thu nhập 
 Xã khai thác xuất gian tăng hỗn hợp 
 (tấn) (1000đ/ha) (1000đ/ha) (1000đ/ha) (1000đ/ha) 
 Cam Chính 90 112.500 30,131.7 82,368.3 80,280.3 
 Cam Nghĩa 70 87.500 34,578.6 52,921.4 50,833.4 
 Cam Thành 90 112.500 35,603.5 76,896.5 74,808.5 
 (Nguồn: Tính toán và tổng hợp từ phiếu điều tra) 
 Nhìn vào bảng 2 có thể thấy rằng, bình quân mỗi ha rừng trồng sau mỗi chu kì 
kéo dài 5 năm, tại xã Cam Chính thu nhập hỗn hợp đạt 80,280.3 triệu đồng; xã Cam 
Nghĩa đạt 50,833.4 triệu đồng và tại xã Cam Thành đạt 74,808.5 triệu đồng. Có thể nói 
kết quả và hiệu quả trồng rừng ở đây tương đối cao, mang lại nguồn thu nhập cao, góp 
phần giải quyết việc làm, cải thiện cuộc sống đặc biệt là góp phần xóa đói giảm nghèo 
cho những hộ đặc biệt khó khăn. Điều này được thể hiện rõ qua bảng kết quả và hiệu 
quả trồng rừng bình quân hộ. 
 Đối với xã Cam Nghĩa, trữ lượng khai thác 70 tấn ít hơn trữ lượng khai thác của 
hai xã Cam Chính và Cam Thành, do đó giá trị sản xuất đạt được thấp chỉ 87,500 triệu 
đồng trên ha. Chi phí trung gian xã Cam Thành bỏ ra để thuê và mua dịch vụ vật chất 
trực tiếp lớn nhất đạt 35,603.5 triệu đồng; xã Cam Chính chi phí trung gian tiêu tốn 
30,131.7 triệu trên ha và xã Cam Nghĩa chi phí trung gian tiêu tốn 34,578.6 triệu đồng 
trên ha, chi phí này tương đối cao nếu đối với các hộ gia đình hộ nghèo việc đầu tư 
vốn như vậy rất khó để trả trong thời gian ngắn. Tại xã Cam Chính việc tiêu tốn chi 
phí trung gian thấp nhất cho nên giá trị gia tăng của xã đạt đến 82,368.3 triệu đồng, 
dẫn đến thu nhập hỗn hợp xã Cam Chính đạt lớn nhất là 80,280.3 triệu đồng trên ha. 
Do đó, diện tích trồng rừng không quyết định đến lượng gỗ khai thác và cũng như thu 
nhập hỗn hợp đạt được. Nhưng thu nhập hỗn hợp từ rừng phụ thuộc vào trữ lượng gỗ 
khai thác, cũng như phụ thuộc chi phí trung gian và giá trị gia tăng. 
 165 
Hiệu quả kinh tế sản xuất rừng trồng ở một số xã huyện Cam Lộ, tỉnh Quảng Trị 
 120
 100
 80
 60
 Tấn
 40
 20
 0
 1000đ/ha 1000đ/ha 1000đ/ha 1000đ/ha
 GTSX GTTG GTGT TNHH
 Cam Chính Cam Nghĩa Cam Thành
 Hình 2. Hiệu quả kinh tế bình quân theo xã 
 Như vậy có thể rút ra rằng trồng rừng là một trong những giải pháp giúp 
những hộ gia đình tại khu vực nghiên cứu có thu nhập cao và cuộc sống ổn định trong 
tương lai. Tuy nhiên, với thực tế thiếu vốn đầu tư và sự biến động giá cả của các yếu tố 
đầu vào như giá cả phân bón, giá cây giống và công lao động trên thị trường đã ảnh 
hưởng đến tâm lý đầu tư của các hộ điều tra. Mặt khác, thời gian chờ đợi thu hoạch dài 
cũng là một trong những nguyên nhân khiến các chủ rừng có thể khai thác rừng sớm 
do thiếu vốn hoặc không có nguồn thu để trang trải cho cuộc sống. 
4. KẾT LUẬN 
 Hiệu quả kinh tế trong quản lý rừng dựa vào cộng đồng được thể hiện qua giá 
trị thu nhập hỗn hợp mà các hộ gia đình đạt được. Tại xã Cam Chính thu nhập hỗn 
hợp đạt được 79,632.3 triệu đồng/ha với trữ lượng gỗ 90 tấn, trong thời gian 5 năm 
bình quân các hộ trồng rừng đã thu được số tiền khá lớn. Khoản thu này phản ánh 
rừng trồng do cộng đồng quản lý đã mang lại hiệu quả thiết thực, đóng góp vào tài 
chính gia đình, góp phần cải thiện đời sống của người dân. 
 166 
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, Trường Đại học Khoa học, ĐH Huế Tập 17, Số 2 (2020) 
 TÀI LIỆU THAM KHẢO 
[1] Hạt Kiểm Lâm huyện Cam Lộ, tỉnh Quảng Trị (2018), Báo cáo công tác giao rừng tự nhiên cho 
 hộ gia đình, cá nhân giai đoạn 2012-2018. 
[2] Đinh Hữu Hoàng, Đặng Kim Sơn (2007), Giao đất và giao rừng ở Việt Nam – Chính sách và thực 
 tiễn, Viện chính sách và phát triển Nông Nghiệp và Nông Thôn. 
[3] Phòng Tài nguyên và Môi trường huyện Cam Lộ tỉnh Quảng Trị (2018), Phương án giao rừng 
 Cam Chính, Cam Nghĩa, Cam Thành. 
[4] UBND huyện Cam Lộ tỉnh Quảng Trị (2013), Đề án giao rừng tự nhiên cho hộ gia đình, cá nhân 
 đến năm 2015 định hướng 2020 huyện Cam Lộ, Quảng Trị, Việt Nam. 
[5] UBND huyện Cam Lộ, tỉnh Quảng Trị (2014), Đề án nâng cao hiệu quả kinh tế và phát triển rừng 
 bền vững giai đoạn 2014-2020. 
 ECONOMIC EFFICIENCY OF PLANTATION FORESTS IN SOME COMMUNES 
 OF CAM LO DISTRICT, QUANG TRI PROVINCE 
 Tran Anh Hang*, Tran Thi Tieu Nhu 
 Faculty of Geology and Geography, University of Sciences, Hue University 
 *Email: tahang@hueuni.edu.vn 
 ABSTRACT 
 The study is aimed to determine the economic efficiency of production forest in 
 three communes namely Cam Chinh, Cam Nghia and Cam Thanh of Cam Lo 
 district, Quang Tri province. The paper uses a formula to determine the economic 
 efficiency of plantation forests through the income that households had achieved. 
 Through the results of research and interview for people participating in 
 afforestation, it was determined that the average income is 80,280 millions VND 
 for Cam Chinh, 50,833.4 millions VND for Cam Nghia and 74,808.5 millions VND 
 for Cam Thanh on each hectare of production forest after 5 years of business cycle. 
 This results provide a foundation for further analysis of the effects of afforestation 
 in the Cam Lo district and economic development for people in the current 
 periods. 
 Keywords: Cam Lo, Economic efficiency, plantation forest, , Quang Tri. 
 167 
Hiệu quả kinh tế sản xuất rừng trồng ở một số xã huyện Cam Lộ, tỉnh Quảng Trị 
 Trần Ánh Hằng sinh ngày 15/9/1990 tại TP. Huế. Năm 2012, bà tốt nghiệp 
 Cử nhân ngành Địa lý tài nguyên và môi trường tại Trường Đại học Khoa 
 học, Đại học Huế. Năm 2014, bà nhận học vị Thạc sĩ ngành Địa lý tài 
 nguyên và môi trường tại Trường Đại học Khoa học, Đại học Huế. Từ 
 năm 2013 đến nay, bà công tác tại Trường Đại học Khoa học, Đại học Huế. 
 Lĩnh vực nghiên cứu: Biến đổi khí hậu, tai biến thiên nhiên và sinh khí hậu, 
 tài nguyên môi trường, những tác động và phát triển bền vững. 
 Trần Thị Tiểu Như sinh ngày 26/3/1997 tại Quảng Trị. Năm 2019, bà tốt 
 nghiệp Cử nhân ngành Địa lý tài nguyên và môi trường tại Trường Đại 
 học Khoa học, Đại học Huế. Từ năm 2020 đến nay, bà công tác liên quan 
 đến thực phẩm sạch tại thành phố Đà Nẵng. 
 Lĩnh vực nghiên cứu: Tài nguyên rừng, môi trường và những tác động. 
 168 

File đính kèm:

  • pdfhieu_qua_kinh_te_san_xuat_rung_trong_o_mot_so_xa_huyen_cam_l.pdf