Hiện tượng tỉnh lược trong giao tiếp tiếng Hán và tiếng Việt
Trong giao tiếp ngôn ngữ nói chung, tỉnh lược trong điều kiện cho phép được coi là phương tiện
để tiết kiệm ngôn từ, giúp cho thông tin từ phía người nói hoặc người viết được chuyển tải đến
người nghe hoặc người đọc một cách đầy đủ nhất với số lượng ngôn từ ít nhất mà vẫn đảm bảo
hiệu quả giao tiếp ngôn ngữ. Tuy nhiên, tỉnh lược phải đảm bảo thông tin tường minh, tránh mơ
hồ, thậm chí khó hiểu hoặc hiểu sai nội dung thông tin, nhất là phải đảm bảo tính lịch sự trong
giao tiếp nhằm đạt được hiệu quả giao tiếp. Tỉnh lược trong mỗi ngôn ngữ có khác nhau. Có những
trường hợp cùng một câu văn, trong ngôn ngữ này có thể tỉnh lược một hoặc một số thành phần,
nhưng trong ngôn ngữ kia lại không tỉnh lược được. Trong bài viết này, chúng tôi tiến hành phân
tích điều kiện và vai trò của tỉnh lược trong giao tiếp tiếng Hán và tiếng Việt, chỉ ra những tương
đồng và khác biệt giữa chúng, nhằm góp một tài liệu tham khảo cho công tác dạy học và nghiên
cứu tiếng Hán ở Việt Nam.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Tóm tắt nội dung tài liệu: Hiện tượng tỉnh lược trong giao tiếp tiếng Hán và tiếng Việt
thư thương mại trong Giáo trình Viết hiện hành ở khoa Ngôn ngữ Văn hóa Trung Quốc. Đoạn văn gồm 3 câu, câu ngắn nhất chỉ vẻn vẹn 4 chữ Hán (谢谢合作!Tạ tạ hợp tác: Cám ơn hợp tác). Cả đoạn văn có đến 4 vị trí đã được tỉnh lược. Trong đó, chủ yếu là tỉnh lược thành phần chủ ngữ. Nếu hoàn nguyên các vị trí đã tỉnh lược, câu văn tuy không sai quy tắc ngữ pháp, nhưng cảm giác sẽ rườm rà. Với việc lược bỏ bốn vị trí như trên, đoạn văn trở nên ngắn gọn, thông suốt mà vẫn truyền đạt được đầy đủ thông tin. Trong đó, 谢谢合作! là câu rút gọn cả chủ ngữ và tân ngữ, chỉ còn bốn âm tiết gồm hai từ song âm tiết tổ hợp thành, cân đối, là cấu trúc ngôn ngữ đã từng phổ biến trong văn bản tiếng Hán cổ đại và vẫn phát huy vai trò trong diễn đạt nói và viết tiếng Hán hiện đại. Từ 谢谢tạ tạ (cảm ơn) trong tiếng Hán hiện đại đã thể hiện đầy đủ tính chất lịch sự và thường được sử dụng độc lập tạo thành câu độc từ (câu chỉ có một từ) thường gặp trong các cuộc đối thoại. Tuy nhiên, trong tiếng Việt, để biểu thị hành vi cảm ơn, phải tùy vào ngữ cảnh mới có thể xác định được thành phần nào có thể được lược bỏ. Thông thường, trong tiếng Việt, câu biểu thị cảm ơn cần có thành phần đối xưng (là tân ngữ biểu thị đối tượng cảm ơn), thậm chí thành phần tự xưng (là chủ ngữ biểu thị chủ thể của phát ngôn) cũng phải đồng thời xuất hiện mới đảm bảo tính chất lịch sự, trang trọng trong giao tiếp. Cách biểu đạt tương ứng trong tiếng Việt của đoạn văn trên không cho phép tỉnh lược vị trí thứ nhất và vị trí thứ ba. Các vị trí còn lại nếu tỉnh lược cần thêm từ ngữ thay thế phù hợp hoặc phải hoàn nguyên các thành phần đã lược bỏ của văn bản nguồn. Sau đây, chúng tôi đưa ra mấy phương án chuyển dịch, nói đúng hơn là phương án biểu đạt tương ứng trong tiếng Việt: (a) Thư thăm giá của Quý công ty gửi ngày 12 tháng 6 năm 2007 chúng tôi đã nhận được. Xin trân trọng cảm ơn []. Sau khi [] bàn bạc nhất trí, nay xin gửi một bản danh mục hàng hóa và báo giá mới nhất để Quý vị tham khảo. (b) Chúng tôi đã nhận được thư thăm giá gửi ngày 12 tháng 6 năm 2007 của Quý công ty. Xin trân trọng cảm ơn sự hợp tác mà Quý công ty dành cho chúng tôi. Sau khi chúng tôi bàn bạc nhất trí, xin gửi một bản danh mục hàng hóa và báo giá mới nhất để Quý vị tham khảo. Có thể dễ dàng nhận ra sự khác nhau về trường hợp tỉnh lược trong tiếng Hán và tiếng Việt qua các từ ngữ có gạch dưới. Với tiếng Việt, tỉnh lược thành phần tự xưng cũng khá phổ biến, nhưng đối xưng (xưng hô với người nghe) thì ít xảy ra. Thay vào đó, đôi khi là việc sử dụng kính từ như xin, nay xin, trân trọng,Riêng trường hợp谢谢合作! thì không thể chuyển dịch một cách máy móc, hoàn toàn phụ thuộc mặt chữ được. Quan hệ kết hợp giữa động từ 谢谢tạ tạ và 合作hợp tác là quan hệ động tân, trong đó, 合作hợp tác trả lời cho câu hỏi Cảm ơn ai? Cảm ơn cái gì? Vì vậy, 合作hợp tác trong trường hợp này đã lâm thời chuyển hóa thành danh từ. Như trên đã 7KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 4 - 11/2016 LÝ LUẬN NGÔN NGỮ v nêu, phương án chuyển dịch thứ nhất (a) đã dùng kính từ và từ ngữ biểu thị lịch sự, chuyển dịch thành Xin trân trọng cảm ơn! Với phương án này, bản dịch tiếng Việt còn cho phép tỉnh lược từ 合作hợp tác, có thể tiết kiệm tối đa ngôn từ. Phương án thứ hai (b) đã hoàn nguyên thành phần đối xưng bị tỉnh lược của quý công ty, thậm chí có thể thêm phần có chứa yếu tố tự xưng dành cho chúng tôi. Mặt khác, ngay trong tiếng Việt cũng không cho phép xuất hiện toàn bộ bốn vị trí đã tỉnh lược, nếu không lược bớt, câu văn sẽ rườm rà, thậm chí là lủng củng, gây ức chế cho người đọc và người nghe. Trên đây chỉ là một ví dụ điển hình trong rất nhiều các trường hợp về tỉnh lược trong tiếng Hán hiện đại. Có thể nói, tỉnh lược thường gặp trong cả khẩu ngữ và bút ngữ. So với tiếng Việt, tỉnh lược trong tiếng Hán phổ biến hơn, thành phần được tỉnh lược nhiều hơn. Chỉ với giao tiếp khẩu ngữ thường ngày, những câu “cửa miệng” như “谢谢!” tạ tạ (cảm ơn), “请进” thỉnh tiến (mời vào) “劳驾” lao giá (cảm phiền) v.v..cũng đã chứng tỏ sự khác nhau trong tỉnh lược của tiếng Hán và tiếng Việt. Ba trường hợp cảm ơn, xin mời và cảm phiền kể trên, trong tiếng Việt thông thường cần phải thêm thành phần đối xưng, thậm chí còn phải xuất hiện thành phần tự xưng nữa mới đảm bảo tính lịch sự trong giao tiếp. Sau đây là đoạn đối thoại giữa thầy và trò: – Học sinh: 王老师,您好! – Thầy giáo: 您好!请进!请坐!请喝茶! – Học sinh: 谢谢! (Giáo trình Hán ngữ Tập 1) Đoạn văn trên đã xuất hiện những câu thoại thông thường trong đời sống hàng ngày của người Trung Quốc, bao gồm phát ngôn chào, mời, cảm ơn. Trong đó, xuất hiện cả hiện tượng tỉnh lược chủ ngữ và tân ngữ. Đoạn thoại tương ứng trong tiếng Việt là: – Học sinh: (Em) chào thầy ạ! – Thầy giáo: Chào em! Mời em vào, mời em ngồi, mời em uống trà! – Học sinh: (Em) cảm ơn thầy (ạ)! So sánh hai đoạn thoại trên, có thể nhận thấy, trong tiếng Việt, lịch sự nhất là trong các phát ngôn chào, mời, cảm ơn đều xuất hiện cả chủ ngữ, tân ngữ (tự xưng và đối xưng) kết hợp với “ạ” dành cho lời thoại của người vị thế thấp với người vị thế cao. Trường hợp này có thể tỉnh lược thành phần tự xưng, nhưng đối xưng thì không thể lược bỏ. Trong lời thoại của người vị thế cao với người vị thế thấp cũng cần xuất hiện đối xưng. Tuy nhiên, trong tiếng Hán, do sự hiện diện của những từ biểu thị lịch sự, như 请thỉnh (xin/mời) và谢 谢 tạ tạ (cảm ơn) nên thành phần tự xưng, thậm chí là đối xưng cũng có thể tỉnh lược. Hoàn cảnh ngôn ngữ có vai trò quyết định đến việc xác định thành phần có thể tỉnh lược trong câu. Hoàn cảnh ngôn ngữ đối với văn bản viết được hiểu là đoạn văn trên và dưới. Đối với các cuộc thoại trực tiếp, hoàn cảnh ngôn ngữ là “tất cả những cảnh huống thực tế cấu thành các nhân tố có liên quan đến hành vi ngôn ngữ khi sử dụng ngôn ngữ, gọi tắt là ngữ cảnh. Nhân tố khách quan của ngữ cảnh gồm thời gian, địa điểm, trường hợp, đối tượng; Nhân tố chủ quan gồm vị thế, nghề nghiệp, tư tưởng, tu dưỡng, hoàn cảnh sống, tâm trạng” của người tham gia giao tiếp (冯 广艺,1999). Những nhân tố này có ảnh hưởng và ràng buộc việc lựa chọn, sử dụng ngôn từ. Trong các cuộc đối thoại trực tiếp, do sự hiện diện của các nhân tố chủ quan và khách quan trong ngữ cảnh kể trên, một số thành phần câu thoại tiếng Việt cũng như tiếng Hán, nhất là thành phần tự xưng và đối xưng có thể sẽ được tỉnh lược. Ví dụ: (7) – Lại say rồi phải không? – Về bao giờ thế? Sao không vào tôi chơi? Ði vào nhà uống nước. – Nào đứng lên đi . Cứ vào đây uống nước đã . – Lạy cụ ạ . Bẩm cụ... Con đến cửa cụ để kêu cụ một việc ạ! Đoạn thoại trên là đối thoại giữa Bá Kiến và Chí Phèo trong tác phẩm Chí Phèo của Nam Cao. Trong đó, ba câu đầu là phát ngôn của Bá Kiến – vị Lí trưởng quyền uy và xảo trá đến mức được ví là “cáo già”. Câu cuối là phát ngôn của Chí Phèo. Bá Kiến với vị thế của kẻ ăn trên ngồi trốc đã lược bỏ hoàn toàn các thành phần đối xưng với Chí Phèo, kết hợp với việc lựa chọn kiểu câu ngắn gọn, liên tiếp, tạo ra sự vồn vã, thân mật giả tạo nhằm “lấy lòng” Chí và thực hiện mục đích giao tiếp của mình. Tuy nhiên, Chí Phèo với thân phận của 8 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 4 - 11/2016 v LÝ LUẬN NGÔN NGỮ kẻ cùng đinh trong đối thoại với Bá Kiến đã sử dụng cả tự xưng “con” và đối xưng “cụ”. Còn đối thoại giữa Thị Nở và Chí Phèo thì khẩu khí lại thân mật thực sự. Với vị thế ngang hàng của “đôi lứa đứng đôi”, Thị cũng đã lược bỏ hoàn toàn thành phần đối xưng dành cho Chí, khiến cho lời thoại hết sức ngắn gọn, nội dung thông tin nổi rõ, thể hiện sinh động sự quan tâm chu đáo của Thị dành cho Chí. (8) – Vừa thổ hả? – Ði vào nhà nhé? – Thì đứng lên. Đoạn thoại trong tác phẩm văn học mà tưởng như lời thoại giữa đời thường, khiến người đọc cảm nhận được sự thân mật giữa Thị Nở và Chí Phèo – một kẻ bất cần đời mà cả làng Vũ Đại phải sợ hãi. Tỉnh lược còn thường gặp trong phát ngôn chào của tiếng Hán và tiếng Việt. Tùy từng ngữ cảnh cụ thể, người nói có thể lựa chọn dạng thức đầy đủ hay tỉnh lược đối với thành phần tự xưng và đối xưng. Ba dạng thức lời chào sau đây đều thường gặp trong tiếng Việt. – Xin chào! – Chào + Đại từ nhân xưng ngôi thứ hai ! – Đại từ nhân xưng ngôi I + chào + Đại từ nhân xưng ngôi II. Trong ba dạng lời chào trên, dạng thứ nhất thường sử dụng cho những người có vị thế ngang hàng hoặc người người có vị thế cao đối với người có vị thế thấp. Dạng thứ hai và ba dùng cho mọi đối tượng. Hai dạng này đã thể hiện được vai giao tiếp giữa người nói và người nghe, là những lời chào trang trọng, sắc thái tôn kính của người vị thế thấp dành cho người có vị thế cao và sắc thái tình cảm thân mật của người có vị thế cao dành cho người có vị thế thấp cũng được bộc lộ rõ nét, tùy theo cách lựa chọn đại từ nhân xưng của người nói. Trong đó, dạng thứ hai tương đương với tiếng Hán, dạng thứ ba chỉ có trong tiếng Việt mà không có sự tương ứng tuyệt đối trong tiếng Hán, nghĩa là trong phát ngôn chào, trong tiếng Hán không xuất hiện từ ngữ biểu thị tự xưng Trong lời đáp của câu thoại tiếng Việt, có khi chỉ là một từ đơn, nhằm trả lời cho tâm điểm của câu hỏi cần hướng tới, kể cả khi từ đó là một hư từ. Ví dụ: (9)– Anh đã gọi điện thoại báo tin vui cho mẹ chưa? – Đã. Cách biểu đạt tương đương với đoạn thoại trên trong tiếng Hán là: 你已经打电话告诉妈妈这个好消息了吗? 打了。 Với đối thoại của hai người ngang hàng nhau hoặc người có vị thế cao với người vị thế thấp hơn, câu trả lời chỉ bằng một từ “đã”, hoặc “rồi” cũng có thể khiến cho giao tiếp ngôn ngữ được diễn ra thuận lợi. Trong tiếng Hán, các hư từ tương ứng với “đã” (已经) và “rồi” (了) không thể độc lập tạo thành lời đáp được mà phải căn cứ vào ngữ cảnh để bổ sung động từ chính trong câu hỏi tương ứng vào lời đáp, như câu trên cần thêm động từ “gọi” (điện thoại) 打đả kết hợp với 了liễu để tạo thành lời đáp đã rút gọn 打了đả liễu (đã gọi rồi) và lời đáp đầy đủ 我已经打电话通知她了(Anh đã gọi điện thoại báo mẹ rồi). Như vậy, trong lời đáp của cả tiếng Hán và tiếng Việt đều có thể tỉnh lược đến mức tối đa. Trong cuốn “Tám trăm từ tiếng Hán hiện đại” (现代 汉语八百词), Lã Thúc Tương (吕叔湘,1982) đã khẳng định: “Trong tiếng Hán, khi không cần dùng đại từ nhân xưng thì có thể không dùng, cho dù vì thế mà kết cấu câu có thể không hoàn chỉnh, nhưng ta không theo chủ nghĩa hình thức.” (在汉语里,当不需要用人称代词 的时候就不用,即使为此而句子结构可能不完整, 我们也不追求形式主义。) Dưới đây là cuộc thoại giữa nhân vật “nữ đồng chí” và anh liên lạc tuổi đời 19 lại chưa từng trải qua tình yêu trong tác phẩm “Hoa bách hợp” của Như Chí Quyên: (10) 你多大了? [我] 十九。 [你] 参加革命几年了? [我(参加)] 一年(了)。 9KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 4 - 11/2016 LÝ LUẬN NGÔN NGỮ v [你] 家里还有什么人? [我家里有] 娘、爹、弟弟、妹妹,还有一个姑 姑 – Anh bao nhiêu tuổi rồi? – (Tôi) mười chín. – (Anh) tham gia cách mạng mấy năm rồi? – (Tôi tham gia) một năm (rồi)....... – Gia đình (anh) còn có những ai? – (Trong nhà tôi có) bố, mẹ, em trai, em gái, còn có một bà cô “Nữ đồng chí” là người chiến sỹ nhiều tuổi đời và tuổi quân hơn so với anh chiến sỹ thông tin trẻ tuổi sinh ra và lớn lên từ nông thôn, chưa từng trải cuộc sống và tình yêu, rất lúng túng khi tiếp xúc với bạn khác giới. Tình đồng đội đã thôi thúc “nữ đồng chí” chủ động làm quen với chàng trai trẻ. Đoạn đối thoại giữa hai người đã tỉnh lược đến mức gần như tối đa đại từ nhân xưng, người hỏi dường như đang chất vấn, người trả lời thì thực sự miễn cưỡng. Về góc độ thể hiện tư tưởng nội dung của tác phẩm, sự khuyết vắng của đại từ nhân xưng đã góp phần làm nổi rõ tính cách của từng nhân vật, nhất là anh chiến sỹ trẻ tỏ ra rất nhút nhát, rụt rè trong cuộc sống đời thường, nhưng tính cách ấy lại hoàn toàn trái ngược với hành vi dũng cảm hy sinh cứu đồng đội, khiến cho nhân vật để lại dấu ấn khó quên trong lòng người đọc. Đó cũng là một trong những nhân tố làm nên thành công của tác giả trong nghệ thuật xây dựng nhân vật. Về phía người tham gia giao tiếp, việc lựa chọn hay lược bỏ đại từ nhân xưng có thể coi là một chiến lược giao tiếp, nhất là khi người nói còn mơ hồ trong việc xác định quan hệ vai giao tiếp hoặc cố ý dành khoảng trống trong xưng hô để người nghe tự cảm nhận. Ví dụ trên còn cho thấy, có khi tỉnh lược đại từ nhân xưng kéo theo một số từ ngữ khác cũng bị tỉnh lược. Ví dụ (1) [我(参加)] 一年(了)và (2) [我家 里有] 娘、爹、弟弟、妹妹. Trường hợp (1) 我 bị tỉnh lược kéo theo 参加 và了cũng tỉnh lược theo. Trường hợp (2) 我 bị tỉnh lược kéo theo 家里有 cũng tỉnh lược theo. Một điểm khác biệt khá nổi bật nữa trong giao tiếp tiếng Hán hiện đại và tiếng Việt là, tiếng Việt đến nay vẫn còn sử dụng những từ ngữ mở đầu câu thoại như “thưa”, “kính thưa” thể hiện tính chất lịch sự, trang trọng. Trong hầu hết các cuộc giao tiếp chính thức, những kính từ này đều không thể lược bỏ. Lịch sử giao tiếp tiếng Hán đã từng xuất hiện các cách biểu đạt tương tự, như 禀告 bẩm cáo, 启禀 khởi bẩm. Ngày nay, người Trung Quốc đã lược bỏ những kính từ này. Trong giao tiếp trực tiếp hay giao tiếp gián tiếp qua thư từ chỉ sử dụng từ ngữ xưng hô để mở đầu cuộc thoại. Trong thư, dòng đầu tiên truyền đạt thông tin gửi cho ai, người ta rất chú ý lựa chọn từ ngữ xưng hô phù hợp với đối tượng nhận thư và viết từ đầu dòng, thể hiện sự trân trọng. Vì vậy, cần căn cứ vào ngữ cảnh cụ thể để chuyển dịch sang tiếng Việt mới có thể đạt được sự biểu đạt tương ứng. Ví dụ, lời mở đầu thư mời của vị lãnh đạo một trường đại học Trung Quốc gửi lãnh đạo một trường Đại học Việt Nam có viết: 河内大学校长先生. Hay như trong thư của người con gửi cho bố, mở đầu bằng hai chữ 爸爸!Cách biểu đạt tương ứng trong tiếng Việt lần lượt phải là “Kính gửi Ông hiệu trưởng Trường Đại học Hà Nội” và “Bố kính mến!” hoặc “Thưa bố!”. Trong xưng hô giữa hai mẹ con, khi người con cất tiếng nói: “妈,我回来了!”, ta cần căn cứ vào ngữ cảnh mới có thể đưa ra cách biểu đạt hoàn toàn tương ứng trong tiếng Việt. Chẳng hạn, nếu người con là nàng dâu mới về nhà chồng thì cách biểu đạt tương ứng trong tiếng Việt là “Thưa mẹ! Con đã về ạ.” Còn như khi tình cảm giữa nàng dâu và mẹ chồng đã trở nên thân thiết thì cách biểu đạt tương ứng là “Mẹ ơi con đã về.” Hơn ai hết, người Việt Nam học tiếng Hán cần nắm được những điểm khác biệt này giữa hai ngôn ngữ mới có thể chuyển dịch hoặc lựa chọn cách biểu đạt phù hợp với thói quen của người bản ngữ và đạt được hiệu quả cao trong giao tiếp. 4. KẾT LUẬN Từ những phân tích trên đây, có thể thấy, tỉnh lược là hiện tượng ngôn ngữ được sử dụng trong cả khẩu ngữ và bút ngữ. Trong các cuộc thoại trực tiếp, do sự hiện diện của đôi bên tham gia giao tiếp, người nói và người nghe sẽ có thể căn cứ vào các nhân tố chủ quan và khách quan của ngữ cảnh giao tiếp cụ thể để xác định thành phần được tỉnh lược mà chủ yếu là từ xưng hô bao gồm cả tự xưng là chủ thể của phát ngôn và đối xưng là khách thể nhận ngôn. Do
File đính kèm:
- hien_tuong_tinh_luoc_trong_giao_tiep_tieng_han_va_tieng_viet.pdf