Hiện trạng và vai trò của chứng nhận Vietgap trong nuôi tôm: Nghiên cứu trường hợp nuôi tôm thẻ chân trắng ở tỉnh Sóc Trăng, Việt Nam
Tóm tắt – Nghiên cứu được thực hiện từ
tháng 2 đến tháng 5/2019 thông qua phỏng
vấn 105 hộ nuôi tôm thẻ chân trắng thâm
canh theo chứng nhận VietGAP tại tỉnh Sóc
Trăng. Nghiên cứu nhằm đánh giá hiện trạng
và hiệu quả thực hành chứng nhận trong
quản lí dịch bệnh và chất lượng tôm nuôi.
Tiêu chuẩn VietGAP được khuyến khích áp
dụng từ năm 2013 và ngày càng mở rộng.
Nhờ thực hành tốt theo hướng dẫn của VietGAP như xây dựng ao lắng (94%), kiểm
dịch tôm giống 100%, mật độ thả nuôi phù
hợp (40 con/m2), quản lí nước bằng bộ công
cụ (100%), không sử dụng chất cấm nên
dịch bệnh được hạn chế (40%), năng suất
đạt từ 2,7 đến 5,6 tấn/ha/vụ và lợi nhuận
đạt 179 triệu đồng/ha/vụ có bệnh và 324
triệu đồng/ha/vụ không có bệnh. 49% tôm
VietGAP được bán trực tiếp cho nhà máy
chế biến hoặc mạng lưới của họ, 98% lô
hàng xét nghiệm đạt chuẩn xuất khẩu và nhận
thêm từ hai đến năm nghìn đồng/kg. Như vậy,
tiêu chuẩn VietGAP có ý nghĩa quan trọng
trong cải thiện chất lượng tôm xuất khẩu.
1;2;3Khoa Thủy sản, Trường Đại học Cần Thơ
Tuy nhiên, tỉ lệ số hộ đạt được chứng nhận
còn thấp do người dân thiếu động lực kinh
tế trực tiếp (giá bán không chênh lệch giữa
tôm nuôi thông thường và tôm nuôi theo tiêu
chuẩn VietGAP) và những hỗ trợ về tài chính
bên ngoài
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tóm tắt nội dung tài liệu: Hiện trạng và vai trò của chứng nhận Vietgap trong nuôi tôm: Nghiên cứu trường hợp nuôi tôm thẻ chân trắng ở tỉnh Sóc Trăng, Việt Nam
ghi chép nhật kí đầy đủ và kiểm toán hằng tháng theo tiêu chuẩn VietGAP. Hệ số chuyển hóa thức ăn (FCR) của mô hình nuôi trung bình đã được ghi nhận là 1,11. Phần lớn các hộ nuôi tôm thẻ chân trắng chỉ cấp nước chứ không thay nước (75%), tần suất thay cấp nước trung bình là 12 ngày/lần. Tần suất thay cấp nước tùy thuộc vào thời gian nuôi, nếu tôm càng lớn thì tần suất thay nước càng ngắn, từ sau hơn hai tháng nuôi, nước được cấp thêm hầu như hằng ngày. Các chỉ tiêu chất lượng nước như pH, kiềm, oxy bão hòa, độ trong, nhiệt độ được kiểm soát hằng ngày bằng việc sử dụng bộ công cụ được tài trợ bởi chương trình khuyến khích áp dụng VietGAP của Bộ NN&PTNT thông qua các HTX. Mẫu nước tại một số điểm kênh cấp của vùng nuôi cũng được các ngành chức năng thu thập và mang đi xét nghiệm các chỉ số thủy lí (nhiệt độ, độ mặn, độ trong, độ kiềm, pH, DO) và thủy hóa (BOD5, NO2, NO3, NH4, TAN, tổng vật chất lơ lửng TSS, tổng N, tổng P, kim loại nặng và Chlo hữu cơ, phiêu sinh động thực vật) từ hai đến bốn lần mỗi tháng. Kết quả xét nghiệm mẫu nước được cơ quan chức năng thông báo rộng rãi đến người nuôi thông qua ban quản lí HTX. Dịch bệnh phát sinh trên 40% số hộ nuôi trong vụ vừa qua đã được ghi nhận. Các loại bệnh phát sinh phổ biến nhất là đỏ thân đốm trắng (21,3%) và hoại tử gan, thận tụy (18,3%). Các loại bệnh khác như còi, đường ruột, EMS, phân trắng xảy ra trên 2,1% đến 8,9% tổng số hộ. Một khi dịch bệnh xảy ra, người nuôi có xu hướng thu hoạch ngay (35%) nếu tôm đã đạt được kích cỡ thương phẩm (<200 con/kg). Nếu bệnh xảy ra ở giai đoạn sớm (trong tháng đầu thả nuôi), 30% hộ nuôi sử dụng thuốc để trị, tất cả các loại thuốc đều nằm trong danh mục cho phép và không có hộ nào sử dụng kháng sinh để trị 103 TẠP CHÍ KHOA HỌC TRƯỜNG ĐẠI HỌC TRÀ VINH, SỐ 37, THÁNG 3 NĂM 2020 NÔNG NGHIỆP - THỦY SẢN Bảng 2: Một số chỉ tiêu kĩ thuật chính trong mô hình nuôi tôm thẻ chân trắng Thông tin Đơn vị tính Trung bình±ĐLC Giá trị nhỏ nhất (Min) Giá trị lớn nhất (Max) Diện tích nuôi tôm m2 6.450±3.204 1.500 24.000 Số ao nuôi ao 2,53±1,7 1 7 Diện tích trung bình ao m2/ao 2,468±1,082 1.000 6.250 Độ sâu mực nước m 1,18±0,13 0,7 2 Mật độ thả giống con/m2 40±12,8 20 80 Kích cỡ con giống PL 12 10 15 FCR 1,4±0,26 0,8 1,5 Tần suất thay nước ngày/lần 12,5±10,1 1 30 Năng suất/vụ không có bệnh Tấn/vụ/ha 5,6±2,4 3,5 8,5 Năng suất/vụ có bệnh Tấn/vụ/ha 2,7±1,2 0 4,3 Kích cỡ thu hoạch (con/kg) 79±12 40 200 (Nguồn: Số liệu khảo sát, 2019) bệnh. Nếu việc sử dụng thuốc trị không mang lại hiệu quả, 35% số hộ sẽ loại bỏ tôm nuôi và xử lí lại ao nuôi để đầu tư cho vụ sau. Hình 4: Tần suất các loại bệnh phát sinh trong vụ vừa qua (Nguồn: Số liệu khảo sát, 2019) - Hiệu quả tài chính Tổng chi phí cho nuôi tôm trung bình là 312,6 triệu đồng/ha/vụ. Trong đó, chi phí cố định chiếm 6,9% tổng chi phí, chủ yếu là khấu hao đào ao nuôi tôm/xây dựng công trình nuôi tôm. Trong tổng cơ cấu chi phí biến đổi, chi phí thức ăn chiếm tỉ lệ cao nhất, với 56%; tiếp theo là chi phí thuốc/hóa chất, chi phí con giống và chi phí nhiên liệu chiếm từ 9% đến 12% trong tổng chi phí (Hình 5). Dịch bệnh phát sinh có ảnh hưởng đáng kể đến lợi nhuận của hộ do năng suất thu hoạch Hình 5: Cơ cấu chi phí biến đổi trong nuôi tôm thẻ (Nguồn: Số liệu khảo sát, 2019) giảm hơn một nửa. Khi phát sinh dịch bệnh ở tôm trong giai đoạn sớm (tháng đầu sau khi thả giống) hoặc bệnh đã chuyển biến nghiêm trọng (đỏ thân đốm trắng, EMS, gan, thận, tụy), rất nhiều hộ không thể thu hoạch tôm. Điều này khiến các hộ bị thua lỗ (17%). Đối với những hộ được xem là có vụ nuôi không có phát sinh dịch bệnh trong vụ khảo sát, sau khoảng 92±10,2 ngày, tôm đạt kích cỡ trung bình là 79±12 con/kg và giá bán trung bình là 111±21,1 nghìn đồng/kg. Hiệu quả tài chính từ nuôi tôm thẻ chân trắng là khá 104 TẠP CHÍ KHOA HỌC TRƯỜNG ĐẠI HỌC TRÀ VINH, SỐ 37, THÁNG 3 NĂM 2020 NÔNG NGHIỆP - THỦY SẢN cao, đạt hơn 324 triệu đồng/ha/vụ. Đối với những hộ nuôi có phát sinh dịch bệnh trong quá trình nuôi, lợi nhuận giảm xuống còn khoảng một nửa (Bảng 3). Gần 50% số hộ nuôi bán tôm trực tiếp cho công ti chế biến xuất khẩu thủy sản hoặc mạng lưới thương lái thu gom cho nhà máy. Kết quả khảo sát cho thấy, có 42,6% số hộ nuôi bán tôm cho nhà máy chế biến có yêu cầu xét nghiệm, trong đó, tỉ lệ xét nghiệm đạt yêu cầu là 98%. Khi tôm xét nghiệm đạt yêu cầu của nhà máy chế biến, thông thường là các chỉ tiêu về dư lượng kháng sinh và hàm lượng chất gây nhiễm khác, giá tôm sẽ được cộng thêm từ ba đến năm nghìn đồng/kg. V. THẢO LUẬN A. Đánh giá hiệu quả mô hình VietGAP Từ kết quả phân tích ở trên, chúng ta có thể thấy: việc nuôi tôm theo tiêu chuẩn VietGAP có những kết quả đáng kể. Về mặt quản lí dịch bệnh, tỉ lệ báo cáo dịch bệnh là 40%, tỉ lệ này thấp hơn so với mô hình nuôi thông thường tại tỉnh Bến Tre (62%) [4], trong khi đó, tỉ lệ bệnh nguy hiểm phát sinh ở mức thấp. Vào năm 2015, khi nông dân chưa nuôi tôm theo chứng nhận VietGAP, tỉ lệ tôm mắc các bệnh nguy hiểm như hội chứng gan, thận, tụy cấp tính và đỏ thân đốm trắng được báo cáo tương ứng trên 44% và 26% nông hộ được khảo sát [10]. Các khâu thực hành nuôi tôm phần lớn đều được thực hiện theo đúng hướng dẫn của VietGAP. Đây là nguyên nhân chính để hạn chế dịch bệnh, nhất là vấn đề thả giống với mật độ thưa, có ao lắng và quản lí môi trường nước chặt chẽ. Về mặt cải thiện chất lượng sản phẩm, 100% các hộ không sử dụng chất kháng sinh đã bị cấm. Do đó, một khi tôm nuôi theo chứng nhận VietGAP được xét nghiệm tại nhà máy chế biến, tất cả các lô hàng xét nghiệm đều đạt tiêu chuẩn xuất khẩu về mặt dư lượng kháng sinh, chỉ có 2% lô hàng bị từ chối do không đáp ứng yêu cầu xuất khẩu về chuẩn màu sắc và mầm bệnh khác. Thêm vào đó, việc nuôi tôm theo tiêu chuẩn VietGAP tạo điều kiện thuận lợi cho nông dân bán trực tiếp cho nhà máy chế biến hoặc mạng lưới thu mua của công ti; giảm tác động của khâu trung gian. Việc nuôi tôm theo chứng nhận VietGAP đòi hỏi người nuôi tôm quy mô nhỏ hoạt động trong các HTX/THT để đạt được chứng nhận nhóm. Do đó, người nuôi quy mô nhỏ được tổ chức và quản lí tốt hơn. Hơn nữa, các HTX/THT cũng phát huy vai trò quan trọng trong việc tổ chức tập huấn, tuyên truyền nuôi tôm theo chứng nhận, hợp đồng cung cấp đầu vào (giống, thức ăn) có chất lượng và giá ưu đãi (10 – 20%), kêu gọi và thực hiện các chương trình tài trợ (chi phí chứng nhận, bộ dụng cụ quản lí môi trường, dịch vụ kiểm tra chất lượng nước và thổ nhưỡng vùng nuôi). Xét về mặt hiệu quả tài chính, chúng ta cần hiểu rằng mục tiêu của VietGAP không phải là mang lại hiệu quả về mặt tài chính một cách trực tiếp cho người nuôi, hơn nữa, việc VietGAP là một chứng nhận quốc gia, không được công nhận trên thị trường quốc tế đã làm cho người tiêu dùng quốc tế không sẵn sàng chi trả thêm một cách chính thức cho sản phẩm tôm VietGAP. Tuy nhiên, việc 98% hộ nuôi tôm theo VietGAP đạt được các chỉ tiêu xét nghiệm và nhận được giá tăng thêm từ ba đến năm nghìn đồng/kg đã gián tiếp tạo ra lợi ích kinh tế cho người nuôi. Thêm vào đó, so với mô hình nuôi tôm thông thường không theo VietGAP, thiệt hại do dịch bệnh gây ra là 212 triệu đồng/ha/vụ, 47% số hộ có bệnh bị thua lỗ [10], cao hơn nhiều so với 144,8 triệu đồng/ha/vụ và 17% thua lỗ khi nuôi theo VietGAP. Như vậy, việc ứng dụng VietGAP giúp hạn chế dịch bệnh phát sinh, từ đó giảm bớt mức thua lỗ do dịch bệnh nghiêm trọng gây ra. B. Định hướng phát triển tương lai Ngành hàng tôm Việt Nam có triển vọng phát triển rất lớn khi mà xuất khẩu tôm vẫn là thị trường tiêu thụ chủ yếu. Do đó, việc nuôi tôm theo các chứng nhận nhằm cải thiện chất lượng sản phẩm đáp ứng nhu cầu người tiêu dùng quốc tế là một yêu cầu cần thiết. 105 TẠP CHÍ KHOA HỌC TRƯỜNG ĐẠI HỌC TRÀ VINH, SỐ 37, THÁNG 3 NĂM 2020 NÔNG NGHIỆP - THỦY SẢN Bảng 3: Một số chỉ tiêu hiệu quả tài chính của mô hình Thông tin Đơn vị tính Trung bình±ĐLC Giá trị nhỏ nhất (Min) Giá trị lớn nhất (Max) Kích cỡ thu hoạch Con/kg 79±12 40 200 Giá bán trung bình Nghìn đồng/kg 111±21,1 45 150 Giá tăng thêm cho tôm xét nghiệm Nghìn đồng/kg 3,25±2,01 2 5,5 Lợi nhuận trung bình vụ không phát sinh dịch bệnh Nghìn đồng/ha/vụ 323.930±124.660 224.110 503.590 Lợi nhuận trung bình vụ nuôi có phát sinh dịch bệnh Nghìn đồng/ha/vụ 179.101±26.473 0 289.334 Tỉ lệ thua lỗ (mất trắng) % 17 - - Mức thua lỗ Nghìn đồng/ha/vụ 93.165±25.455 500 127.870 (Nguồn: Số liệu khảo sát, 2019) Nuôi tôm theo chứng nhận VietGAP không mang lại lợi ích kinh tế một cách trực tiếp cho người nuôi khi xem xét giá không chênh lệch giữa tôm thông thường và tôm VietGAP. Việc này dẫn đến người nuôi thiếu động lực trong việc chấp hành hoàn toàn những hướng dẫn của VietGAP cũng như hạn chế trong các nỗ lực và hỗ trợ để đạt được chứng nhận, đây cũng là nguyên do tỉ lệ HTX/THT được trao chứng nhận VietGAP còn rất nhỏ. Tuy nhiên, việc ứng dụng tiêu chuẩn VietGAP trong tương lai rất có ý nghĩa trong việc quản lí dịch bệnh, nâng cao chất lượng sản phẩm và tạo tiền đề để nâng cấp các chứng nhận quốc tế như ASC hay GlobalGAP. Có rất nhiều điểm tương đồng giữa VietGAP và các chứng nhận quốc tế, hơn nữa, việc áp dụng VietGAP đang nằm trong lộ trình chuyển đổi dần sang các chứng nhận quốc tế. Bộ NN&PTNT đã ban hành nhiều văn bản, sổ tay và hướng dẫn nhằm chuyển đổi VietGAP sang các chứng nhận quốc tế đặc biệt là ASC [5], [6]. Nông dân bước đầu sẽ được tổ chức vào các HTX/THT, được tập huấn, làm quen và nâng cao năng lực sản xuất theo tiêu chuẩn VietGAP, sau khi đã đạt được chứng nhận VietGAP hoặc 60% năng lực người dân được cải thiện, các HTX/THT sẽ được tiếp tục hỗ trợ để nâng cấp lên theo tiêu chuẩn ASC (phỏng vấn KIP). VI. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ VietGAP là một chương trình quản lí dịch bệnh và chất lượng khá hiệu quả cho người nuôi. Tiêu chuẩn VietGAP đã được địa phương khuyến khích từ năm 2013. Hiện tại, hơn 30% diện tích và số hộ nuôi tôm của tỉnh được tổ chức và quản lí hiệu quả trong các HTX/THT. Một số điểm kiểm soát được người nuôi thực hành khá tốt, đặc biệt là việc xây dựng ao lắng với diện tích phù hợp, các công trình phụ đạt chuẩn, tôm giống được kiểm dịch và thả nuôi với mật độ thích hợp, sử dụng thuốc hóa chất theo đúng hướng dẫn và thực hiện ghi chép nhật kí đầy đủ. Việc làm này giúp người nuôi hạn chế được dịch bệnh phát sinh, nhất là những bệnh nguy hiểm, từ đó, hạn chế thiệt hại kinh tế do dịch bệnh gây ra. Việc sử dụng thuốc/hóa chất theo đúng hướng dẫn của VietGAP, không sử dụng kháng sinh, giúp cải thiện chất lượng sản phẩm tôm rõ rệt, 98% lô hàng tôm xét nghiệm đạt chuẩn xuất khẩu. Từ đó, nông dân được nhận thêm từ hai đến năm nghìn đồng/kg. Tuy nhiên, tỉ lệ HTX/THT đạt được chứng nhận VietGAP còn khá thấp do nông dân không có đủ động lực về mặt tài chính để thực hiện cũng như thiếu các hỗ trợ cho chi phí kiểm toán. Như vậy, dù không mang lại lợi ích kinh tế một cách trực tiếp, việc nuôi tôm theo tiêu chuẩn VietGAP vẫn có ý 106 TẠP CHÍ KHOA HỌC TRƯỜNG ĐẠI HỌC TRÀ VINH, SỐ 37, THÁNG 3 NĂM 2020 NÔNG NGHIỆP - THỦY SẢN nghĩa quan trọng trong kiểm soát dịch bệnh, cải thiện chất lượng sản phẩm xuất khẩu, tổ chức sản xuất tốt hơn cho nông hộ quy mô nhỏ dưới hình thức HTX/THT và nâng cao năng lực sản xuất, tạo tiền đề nâng cấp chứng nhận quốc tế ASC. Để làm được điều này, nông dân nuôi tôm quy mô nhỏ cần được tái cơ cấu tổ chức kinh tế tập thể bằng cách khuyến khích, tuyên truyền và vận động nông dân tham gia vào các HTX/THT. Các HTX/THT cần nâng cao năng lực quản lí và phát huy vai trò của mình. Các HTX/THT cần kết hợp với các cơ quan chuyên ngành liên quan tổ chức tập huấn và khuyến khích ứng dụng VietGAP. Các ngành chức năng cần đẩy mạnh kêu gọi tài trợ, hỗ trợ từ các dự án, chương trình quốc gia và quốc tế trong việc đẩy mạnh ứng dụng VietGAP, từng bước xây dựng cơ sở hạ tầng, nâng cao năng lực sản xuất và nhận thức người dân, tiến tới nâng cấp nuôi tôm theo các chứng nhận quốc tế. VII. LỜI CẢM ƠN Đề tài này được tài trợ bởi Dự án Nâng cấp Trường Đại học Cần Thơ VN14-P6 bằng nguồn vốn vay ODA từ Chính phủ Nhật Bản. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] Cổng thông tin điện tử – Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn. Xuất khẩu tôm năm 2019 hướng mục tiêu đạt 4,2 tỷ USD. Truy cập từ: https://www.mard.gov.vn/Pages/xuat-khau-tom-nam- 2019-huong-muc-tieu-dat-4-2-ty-usd.aspx [Ngày truy cập 02/7/2019]. [2] Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu Thủy sản – VASEP. Tổng quan ngành thủy sản Việt Nam. Truy cập từ: nganh.htm [Ngày truy cập 05/7/2019]. [3] Tổng cục Thống kê. Số liệu thống kê Nông – Lâm – Thủy sản. Truy cập từ: [Ngày truy cập 10/11/2019]. [4] Quyen Nguyen Thi Kim, Sano M, and Kuga M. Current Situation of VietGAP system in White Leg Shrimp (Litopenaeus vannamei) Intensive Farming: Focus on disease control in the Mekong Delta. Jour- nal of Regional Fisheries. 2019;59(3):146-156. [5] Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn. Quyết định số 1503/QĐ-BNN-TCTS ban hành tiêu chuẩn quốc gia về thực hành nuôi trồng thủy sản tốt ở Việt Nam (VietGAP). Hà Nội: Bộ NN&PTNN; 2011. [6] Nabeshima K, Michida E, Vu Nguyen Hoang, Suzuki A. Emergence of Asian GAPs and its relationship to Global G.A.P. IDE Discussion Paper. 2015;507:1-34. [7] Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn. Quyết định số 4835/QĐ-BNN-TCTS ban hành hướng dẫn áp dụng VietGAP đối với nuôi thương phẩm tôm chân trắng (P.vannamei), tôm sú (P.monodon). Hà Nội: Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn. 24/11/2015. [8] Ha Tran Thi Thanh, Bush R S, Dijk V H. The cluster panacea: questioning the role of cooperative shrimp aquaculture in Vietnam. Aquaculture. 2013;388-391: 89-98. [9] FAO. Cooperatives in small-scale fisheries: enabling successes through community empowerment. Interna- tional year of cooperatives issue brief series. Thai- land: Bankok; 2012. [10] Nguyễn Thị Kim Quyên, Huỳnh Văn Hiền và Lê Thị Ngọc Anh. Tác động về mặt tài chính và dự đoán khả năng xuất hiện dịch bệnh của mô hình nuôi tôm thẻ chân trắng thâm canh ở tỉnh Sóc Trăng. Tạp chí Khoa học Đại học Cần Thơ. 2017;52(Phần B):103-112. [11] Huỳnh Văn Hiền, Đặng Thị Phượng, Nguyễn Thị Kim Quyên, Lê Nguyễn Đoan Khôi, và Nobuyuki Yagi. So sánh hiệu quả sản xuất giữa mô hình nuôi thâm canh tôm thẻ chân trắng thông thường và VietGAP ở Sóc Trăng. Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông Nghiệp Việt Nam. 2020;1(110):97-102. [12] Chi cục Thủy Sản tỉnh Sóc Trăng. Báo cáo tổng kết tình hình thủy sản năm 2018 và phương hướng nhiệm vụ năm 2019. Báo cáo tổng kết hàng năm 2019. Sóc Trăng: Chi cục Thủy sản. [13] Khang Pham Van. Shrimp Production in the Ben Tre province, Vietnam [Master thesis]. Norway: The University of Tromso; 2008. [14] Nguyễn Thanh Phương, Trần Ngọc Hải. Giáo trình Kỹ thuật sản xuất giống và nuôi giáp xác [Tài liệu giảng dạy]. Trường Đại học Cần Thơ; 2004. [15] AA1. Aquaculture Management Practices in Shrimp Farming. Authority News. 2002;1(2):21-24. 107
File đính kèm:
- hien_trang_va_vai_tro_cua_chung_nhan_vietgap_trong_nuoi_tom.pdf