Hiện trạng và mô hình phát triển du lịch dựa vào cộng đồng tại Thừa Thiên Huế
Du lịch dựa vào cộng đồng (DLCĐ) được kỳ vọng sẽ mang lại lợi ích kép cho cộng đồng địa phương
và bảo vệ môi trường. Tuy nhiên, DLCĐ vẫn còn nhiều hạn chế và phát triển không đồng đều ở Việt Nam.
Mục đích của bài viết này nhằm (1) tìm hiểu hiện trạng DLCĐ tại tỉnh Thừa Thiên Huế; và (2) phân tích các
bên liên quan đến DLCĐ; từ đó (3) tìm ra những trở ngại của DLCĐ trong thực tiễn. Dữ liệu được thu thập
qua các số liệu thứ cấp và phân tích tài liệu. Nghiên cứu cũng tổ chức các cuộc thảo luận nhóm và phỏng
vấn sâu người am hiểu tại 2 xã Hồng Hạ và Quảng Lợi. Kết quả cho thấy Thừa Thiên Huế có tiềm năng lớn
để phát triển DLCĐ bởi sự độc đáo của điều kiện tự nhiên, bề dày lịch sử và đa dạng trong văn hoá địa
phương. Kết quả chỉ rõ số lượng và vai trò của các bên liên quan đến DLCĐ ở mỗi trường hợp là khác nhau
và chưa rõ ràng. Cả hai mô hình DLCĐ tại Hồng Hạ và Quảng Lợi đều có những hạn chế căn bản liên quan
đến năng lực của chính quyền và cộng đồng. Do đó, để đảm bảo DLCĐ phát triển bền vững, cần thiết có sự
liên kết chặt chẽ giữa các bên liên quan và phát huy các giá trị địa phương
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Tóm tắt nội dung tài liệu: Hiện trạng và mô hình phát triển du lịch dựa vào cộng đồng tại Thừa Thiên Huế
g Hạ (b) Quảng Lợi Nguồn: thảo luận nhóm, 2019-2020 Sơ đồ 1. Sơ đồ VENN về mối quan hệ giữa các bên liên quan trong DLCĐ Jos.hueuni.edu.vn Tập 130, Số 3A, 2021 79 Trong quá trình thảo luận nhóm, nghiên cứu đã phỏng vấn người dân về đánh giá của họ về vai trò các bên liên quan ở từng điểm du lịch. Kết quả cho thấy, ở Hồng Hạ, người dân cho rằng cộng đồng và UBND xã đóng vai trò quan trọng nhất trong việc phát triển du lịch. 23,53% và 29,41% là tỷ lệ hộ cho rằng chính quyền xã và cộng đồng đóng vai trò rất quan trọng trong các hoạt động du lịch. Trong khi đó, cộng đòng đánh giá thấp vai trò của Sở du lịch, UBND huyện và phòng văn hoá huyện, họ cho rằng những đơn vị này chỉ tham gia gián tiếp và mục đích thúc đẩy. Trong khi đó, ở Quảng Lợi, người dân cho rằng cộng đồng và các công ty du lịch mới là đầu mối quan trọng nhất, với tỷ lệ hộ đồng ý ở mức rất quan trọng lần lượt là 50% và 33%. Người dân cho rằng, chính quyền không đóng vai trò quan trọng hoặc có nhưng ít trong các hoạt động du lịch tại đây, tỷ lệ lần lượt là 33.33% và 50%. Kết qủa đánh giá của người dân về vai trò các bên liên quan trong du lịch được thể hiện ở Hình 3. a) Hồng Hạ b) Quảng Lợi Nguồn: Phỏng vấn sâu, 2019–2020 Hình 3. Đánh giá của cộng đồng về vai trò của các bên liên quan trong DLCĐ Các hoạt động dịch vụ DLCĐ Kết quả nghiên cứu cho thấy, các loại hình du lịch ở mỗi địa phương là khác nhau (Hình 4). Cụ thể, ở Hồng Hạ, do mới đưa vào hoạt động nên du lịch mới chỉ phát triển với 5 loại hình dịch vụ chính bao gồm: Nghỉ dưỡng tại homestay, biểu diễn nghệ thuật truyền thống, dịch vụ ăn uống, giữ xe và dịch vụ cho thuê. Trong đó, người dân cho rằng 45% thu thập là từ dịch uống ăn uống tại khu du lịch suối Parle, 20% và 15% là từ hoạt động diểu diễn văn nghệ và dịch vụ cho thuê. Đóng góp ít vào thu nhập là loại hình nghỉ dưỡng homestay và giữ xe, với 10% mỗi loại hình. Tại Quảng Lợi, có 7 loại hình dịch vụ du lịch chính, trong đó thu nhập nhiều nhất từ 3 loại hình là ngắm rừng ngập mặn (30%), các dịch vụ mô phỏng hoạt động cộng đồng như đổ nò, bắt trìa (25%) và dịch vụ ăn uống chiếm 20%. Các loại hình dịch vụ khác do mới đưa vào hoạt động nên có nguồn thu thấp, ví dụ, chỉ 5% thu nhập từ dịch vụ check-in, chụp ảnh. 0% 20% 40% 60% 80% 100% Cộng đồng Chính quyền Nhân tố bên ngoài Không quan trọng Bình thường Quan trọng Rất quan trọng 0% 20% 40% 60% 80%100% Cộng đồng Chính quyền Nhân tố bên ngoài Không quan trọng Bình thường Quan trọng Rất quan trọng Hoàng Dũng Hà và CS. Tập 130, Số 3A, 2021 80 Như vậy, kết quả cho thấy phát triển DLCĐ ở mỗi mô hình là khác nhau về loại hình du lịch, nó phụ thuộc vào yếu tố có sẵn và lợi thế tại địa phương, nhất là tài nguyên thiên nhiên. Ví dụ, ở Hồng Hạ dựa vào có suối Parle và dịch vụ homestay (chính là nhà Gươil của cộng đồng Cơ Tu). Trong khi đó, Quảng Lợi phát huy lợi thế của rừng ngập mặn và hoạt động đánh bắt thuỷ hải sản để lồng ghép vào du lịch. a) Hồng Hạ b) Quảng Lợi Nguồn: thảo luận nhóm, 2019-2020 Hình 4. Đánh giá của cộng đồng về thu nhập từ các loại hình du lịch chính Hiệu quả của mô hình DLCĐ Như đã trình bày ở trên, nghiên cứu tiến hành 2 cuộc thảo luận nhóm tại 2 xã với tổng cộng 15 người tham gia (6 ở Hồng Hạ và 9 ở Quảng Lợi) để xem xét đánh giá của cộng đồng về hiệu quả của mô hình DLCĐ với 5 nhóm yếu tố chính gồm: Môi trường, văn hoá, sự tham gia của cộng đồng địa phương, kinh tế và trao quyền cho nhóm dễ bị tổn thương. Mỗi yếu tố có những tiêu chí khác nhau để người dân dễ hình dung và lựa chọn. Cụ thể, yếu tố môi trường bao gồm các tiêu chí như là nâng cao nhận thức cho du khách và người dân địa phương; giảm ô nhiễm môi trường. Yếu tố văn hoá bao gồm bảo tồn phong tục địa phương, duy trì và phát triển nghề truyền thống. Yếu tố sự tham gia của cộng đồng gồm các tiêu chí về gắn kết cộng đồng, góp phần hài lòng khách. Yếu tố kinh tế được thể hiện bằng tăng thu nhập, đa dạng hoá sinh kế và tạo nguồn quỹ cho bảo tồn thiên nhiên. Yếu tố trao quyền gồm có tiêu chí về bình đẳng giới, người nghèo và nhóm dễ bị tổn thương. Ở mỗi nhóm yếu tố, sẽ có tổng cộng 5 mức đánh giá gồm: hoàn toàn đạt được, đạt được, phân vân, chưa đạt được và hoàn toàn chưa đạt được. Mỗi người tham gia thảo luận nhóm sẽ lên đánh dấu vào mỗi yếu tố ở 1 mức độ mà theo họ là hợp lý nhất. Tổng điểm của các yếu tố luôn đạt 15. Kết qủa tổng hợp (sơ đồ 2) cho thấy, người dân đánh giá có 2 khía cạnh mà DLCĐ có thể mang lại hiệu quả nhất đó là khía cạnh bảo vệ môi trường với 13/15 người cho rằng hoàn toàn đạt được và có thể đạt được; và khía cạnh về sự tham gia của cộng đồng địa Jos.hueuni.edu.vn Tập 130, Số 3A, 2021 81 phương. Ngược lại, đa số người dân đang phân vân về việc liệu DLCĐ có giúp trao quyền cho nhóm người yếu thế hay không và có giúp bảo tồn văn hoá được hay không. Về kinh tế, có 8/15 người hoàn toàn đồng ý và đồng ý rằng DLCĐ có thể giúp nâng cao thu thập và tạo kinh tế địa phương, nhưng cũng có tới 7/15 người đang phân vân và cho rằng nó là chưa thể đạt được. * Ghi chú: - Số màu đen trong ô xanh là các cấp của thang đo tương ứng 1- hoàn toàn đạt được, 2 – đạt được, 3 – phân vân, 4 – không đạt được, 5 – hoàn toàn không đạt được. - Số màu đỏ là tổng hợp tổng số lượng người tham gia thảo luận nhóm bỏ phiếu cho mỗi cấp. Nguồn: thảo luận nhóm, 2019-2020 Sơ đồ 2. Đánh giá của người dân về hiệu quả của mô hình DLCĐ tại địa phương 3.3 Những hạn chế trong phát triển DLCĐ tại các điểm nghiên cứu Có thể thấy, việc áp dụng DLCĐ là khá phức tạp trong bối cảnh thực tế. Mặc dù sự tham gia của cộng đồng vào quá trình phát triển du lịch là điều kiện cần thiết, nhưng thực tế, số lượng du khách có xu hướng giảm. Có nhiều nguyên nhân nhưng khía cạnh bài viết muốn đề cập ở đây là năng lực con người. Việc thiếu các kỹ năng nhất định cần thiết trong ngành du lịch cản trở tiến Hoàng Dũng Hà và CS. Tập 130, Số 3A, 2021 82 độ của các dự án phát triển du lịch. Sebele (2010) cho rằng du lịch không thể thành công nếu người dân địa phương không có được những kỹ năng cần thiết trong du lịch [11]. Trớ trêu thay, điều này lại đang diễn ra ở 2 địa bàn nghiên cứu, đặc biệt là ở Hồng Hạ, nơi 100% cộng đồng tham gia du lịch là người dân tộc thiểu số và trình độ thấp. Là một ngành tương đối mới đối với người dân địa phương (thường là nông dân), các kỹ năng đặc biệt cần thiết cho du lịch là không quen và đòi hỏi cao. Bởi vì rõ ràng, du lịch đòi hỏi các kỹ năng khác với nông nghiệp [22]. Phát hiện của bài báo trùng khớp với tuyên bố của các nghiên cứu khác trên thế giới. Ví dụ, Dieke (trích trong Tosun) cho rằng kinh nghiệm địa phương về du lịch là không đáng kể, thiếu chuyên môn và năng lực là một yếu tố khác ảnh hưởng lớn đến hiệu quả của phát triển du lịch có sự tham gia tại cấp địa phương [25]. Do đó, cộng đồng cần có được các kỹ năng quản lý, kinh doanh và tiếp thị thông qua các khoá đào tạo để đảm bảo rằng họ thâm nhập vào thị trường và đạt được một phần lợi ích lớn hơn từ ngành du lịch [11], [13]. Ngoài ra, bất cứ hoạt động/dự án nào cũng cần có sự giúp đỡ có chủ ý và hợp tác của một loạt các cơ quan từ chính phủ đến cơ quan tài trợ quốc tế, tổ chức phi chính phủ và các doanh nghiệp [14]. Trong hoạt động du lịch cũng tương tự, tầm quan trọng của việc kết hợp các bên liên quan trong phát triển DLCĐ không thể được đánh giá thấp vì điều này đảm bảo sự phát triển diễn ra theo cách có thể chấp nhận được đối với tất cả các bên liên quan [15]. Các tổ chức bên ngoài (công ty, phi chính phủ) có hai chức năng chính trong bối cảnh phát triển DLCĐ bao gồm cung cấp dịch vụ và vận động chính sách [16]. Các tổ chức này là một công cụ thể chế tốt để trao quyền cho các cộng đồng chủ nhà bản địa thông qua các phương tiện giáo dục, tổ chức, và chính trị khác nhau [14]. Tuy nhiên, một kịch bản không mong muốn như vậy đã diễn ra ở Hồng Hạ, nơi du lịch thiếu sự chuyên nghiệp và yếu trong tiếp thị, một phần do các nhà điều hành tour/các công ty du lịch không tham gia hoặc đã từng tham gia nhưng không còn hoạt động. Trong khi đó, ở Quảng Lợi, chính quyền địa phương tỏ ra thờ ơ và cũng không có sự hỗ trợ từ các tổ chức bên ngoài như NGOs. Do đó, lý tưởng nhất là phải có sự hỗ trợ đáng kể của khu vực công và tư nhân [17], [18]. Các công ty du lịch có thể phát triển các sản phẩm tốt hơn cho khách du lịch bằng cách kết hợp các dịch vụ địa phương, hàng hóa và trải nghiệm văn hóa vào các lựa chọn kỳ nghỉ [23]. Cụ thể hơn, các chương trình du lịch có thể liên kết khách du lịch đến trải nghiệm văn hóa, đưa khách đến các trang trại địa phương nơi họ có thể xem ngô được trồng và chế biến như thế nào, hoặc xem múa dân gian và thưởng thức đồ ăn truyền thống ngay tại địa phương. Thực tế là, các cấp chính quyền liên quan đến DLCĐ tại Hồng Hạ và Quảng Lợi chưa tạo ra được môi trường đủ hấp dẫn để thu hút và khuyến khích đầu tư của khu vực tư nhân. Do đó, chính quyền và các bên liên quan khác nhau phải cung cấp một môi trường thuận lợi để tăng cường đầu tư và tính bền vững của du lịch. Bên cạnh các cơ sở hạ tầng cần thiết và các tiện ích xã hội như đường, điện, nước, nên cung cấp thêm các dịch vụ và đa dạng chỗ ở để tăng cường sự hài lòng của khách du lịch trong thời gian lưu trú. Chính quyền nên đóng vai trò giám sát, và là Jos.hueuni.edu.vn Tập 130, Số 3A, 2021 83 cầu nối giữa cộng đồng và doanh nghiệp nhằm đảm bảo tính bền vững của DLCĐ tại Hồng Hạ và Quảng Lợi trong tương lai gần. 4 Kết luận DLCĐ đã cho thấy tiềm năng to lớn và đóng góp có ý nghĩa cho sự phát triển kinh tế và xã hội ở nhiều nơi trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Thông qua việc nghiên cứu tổng quan các tài liệu về DLCĐ trong và ngoài nước, nghiên cứu này đã chỉ ra được cơ sở về thực tiễn và pháp lý để phát triển DLCĐ. Trường hợp nghiên cứu tại Hồng Hạ và Quảng Lợi đã cho thấy một số hạn chế mang tính chất căn bản khi triển khai DLCĐ trong thực tế, đó là sự hạn chế về năng lực của chính quyền và cộng đồng địa phương cũng như sự thiếu phối hợp giữa các bên liên quan. Các giải pháp để phát huy tiềm năng lợi thế về DLCĐ của 2 địa phương cần chú trọng xây dựng cơ chế liên kết và phát huy vai trò của các bên liên quan, đặc biệt là sự tham gia chủ động của cộng đồng và các doanh nghiệp làm du lịch đóng vai trò then chốt. Việc trao quyền làm chủ cho người dân trong các mô hình DLCĐ sẽ phát huy tốt vai trò chủ động, tránh tâm lý phụ thuộc và ỷ lại. Chính quyền đóng vai trò điều phối chung và giúp cộng đồng kết nối với các bên liên quan khác trong phát triển bền vững các mô hình DLCĐ. Các nghiên cứu tiếp theo cần tập trung phân tích bài học kinh nghiệm và đưa ra những khuyến nghị cho các nhà làm chính sách để hướng đến việc kết nối thị trường giữa du lịch truyền thống và du lịch cộng đồng, phát huy đúng tiềm năng to lớn của du lịch cộng đồng trong xoá đói giảm nghèo và bảo vệ môi trường tại Việt Nam nói chung và Thừa Thiên Huế nói riêng. Lời cám ơn Cám ơn quỹ Asia-Pacific Network for global change research (APN) đã hỗ trợ tài chính cho nghiên cứu này thông qua dự án CBA2019-02MY-Hoang. Tài liệu tham khảo 1. UNWTO, (2018), UNWTO International Tourism Trends 2017, 1–20. 2. M. Mowforth and I. Munt, (2005), Tourism and Sustainability: Development and New Tourism in the Third World, 32(2). 3. S. Percy, (2009), Ecotourism: Paradise Gained or Paradise Lost?, Panos Media Brief., 14, 14. 4. W. Gladstone, B. Curley, and M. R. Shokri, (2013), Environmental impacts of tourism in the Gulf and the Red Sea, Mar. Pollut. Bull., 72(2), 375–388. 5. R. Scheyvens, (2011), Tourism and Poverty, Routledge. Hoàng Dũng Hà và CS. Tập 130, Số 3A, 2021 84 6. D. Fennell, (2007), Ecotourism: Third edition. 7. J. Brohman, (1996), New directions in tourism for third world development, Ann. Tour. Res., 23(I), 48–70. 8. A. L. Stronza, (2010), Commons management and ecotourism: ethnographic evidence from the Amazon, Int. J. Commons, 4(1), 56–77. 9. M. Mann, (2000), The community tourism guide, EARTHSCAN. 10. R. E. Freeman and D. J. Aram, (2015), Strategic management: A stakeholder approach. Pitman Publishing Inc. 11. L. S. Sebele, (2010), Community-based tourism ventures, benefits and challenges: Khama Rhino Sanctuary Trust, Central District, Botswana, Tour. Manag., 31(1), 136–146. 12. G. He et al., (2008), Distribution of economic benefits from ecotourism: A case study of Wolong Nature Reserve for Giant Pandas in China, Environ. Manage., 42, 1017–1025. 13. D. D. Gow and J. Vansant, (1983), Beyond the rhetoric of rural development participation: How can it be done?, World Dev. 11(5), 427–446. 14. C. Tosun, (2000), Limits to community participation in the tourism development process in developing countries, Tour. Manag., 21(6), 613–633. 15. D. M. Ngila, (2009), The private sector-community relationship in ecotourism: The case of Umngazi river bungalows. Master thesis. 16. V. Desai and R. B. Potter, (2014), The Companion to Development Studies, Third Edition. 17. N. N. Bernadette, (2011), The Role of Private Sector Participation in Sustainable Tourism Development in Cross River State, Nigeria, Int. J. Bus. Soc. Sci., 2(2), 153–160. 18. R. Butler, (2005), The tourism area life cycle vol.1: Applications and Modifications, 1(10). 19. Nguyễn Quang Tân, Ubukata Fumikazu, Nguyễn Công Định và Dương Viết Tân, (2019), Thực trạng và hạn chế trong quá trình phát triển du lịch dựa vào cộng đồng ở khu vực miền núi huyện A Lưới, tỉnh Thừa Thiên Huế, Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ, 55 (Số chuye ̂n đề: Môi trường và Biến đổi khí hậu)(1), 157–166. 20. TTHPPC, (2017), Uỷ ban nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế, Báo cáo Nghiên cứu xây dựng cơ chế chi trả dịch vụ môi trường rừng đối với hoạt động kinh doanh dịch vụ du lịch tại tỉnh Thừa Thiên Huế. 21. TTHDoT, (2019), Sở du lịch tỉnh Thừa Thiên Huế, Báo cáo kết quả du lịch năm 2017 và định hướng phát triển cho giai đoạn 2018–2020. 22. USAID, (2018), Chiến lược phát triển du lịch sinh thái ở tỉnh Quảng Nam và Thừa Thiên Huế, giai đoạn 2018–2023, Dự án Trường Sơn Xanh, tài trợ bởi USAID. Jos.hueuni.edu.vn Tập 130, Số 3A, 2021 85 23. Nguyễn Minh Đạo và Trần Quang Bảo, (2018), Du lịch sinh thái trong các Vườn Quốc Gia, khu bảo tồn thiên nhiên khu vực Miền Trung và Tây nguyên: Lý thuyết và Thực tiễn. Báo cáo trình bày và đăng trong kỷ yếu hội thảo quốc tế "Bảo tồn đa dạng sinh học và phát triển bền vững khu vực Miền Trung và Tây Nguyên lần thứ I, Phát triển du lịch tại các Vườn quốc gia, Khu bảo tồn thiên nhiên: Cơ sở khoa học, pháp lý và kinh nghiệm thực tiễn" tại Đà Nẵng, ngày 21/07/2018, 14–29. 24. VNAT, (2018), Tổng cục du lịch Việt Nam, Thống kê du lịch Việt Nam qua các năm. Truy cập từ 25. C. Tosun, (1998), Roots of unsustainable tourism development at the local level: The case of Urgup in Turkey, Tour. Manag., 19(6), 595–610.
File đính kèm:
- hien_trang_va_mo_hinh_phat_trien_du_lich_dua_vao_cong_dong_t.pdf