Hiện trạng và kế hoạch quản lý nguồn lợi thuỷ sản hồ Phước Hòa
TÓM TẮT
Đập thuỷ lợi Phước Hoà mới được xây trên sông Bé có cao trình là 51,5m, mực nước sông khi chưa
có đập dao động trong khoảng 25 – 29m, mực nước hồ sau khi đập được xây dựng là 42,90m, tương
ứng với diện tích mặt hồ khoảng 1.269ha. Để đánh giá tác động của đập, nguồn lợi thuỷ sản trong
khu vực Dự án được nghiên cứu trong giai đoạn 2009 – 2012. Đồng thời các cuộc hội thảo cũng
được tổ chức với sự tham gia của chính quyền địa phương để thảo luận về kế hoạch quản lý thuỷ
sản ở hồ Phước Hoà. Kết quả cho thấy đã xác định được 106 loài cá thuộc 30 họ và 12 bộ. Trong đó,
có một số loài có kích thước rất lớn như cá sơn đài (Wallago leeri) nặng 55kg; cá chình (Anguilla
marmorata) 5,7kg; cá lăng đỏ (Hemibagrus wyckoides) 1,3kg. Đáng chú ý là có ít nhất 15 loài thủy
sản có thể bị tác động nghiêm trọng khi dòng chảy bị thay đổi. Kết quả phỏng vấn ngư dân cho thấy
sản lượng trung bình đạt 5,68kg/ngày/ngư dân (1 – 25kg/ngày/ngư dân), có đến 87,50% ngư dân
cho rằng sản lượng khai thác giảm đáng kể so với những năm gần đây. Đường dẫn cá qua đập Phước
Hoà dài 1,9km đã được xây dựng, có mái dốc dọc thay đổi từ 0,7 đến 1,43%. Vận tốc nước sẽ được
giới hạn khoảng 0,6m/s. Đây là đường dẫn cá được xây dựng đầu tiên ở Việt Nam và là công trình
điển hình cho các dự án thuỷ điện/lợi sau này. Hiện tại đường dẫn cá chưa đi vào hoạt động, nhưng
đã xác định được ít nhất 25 loài có thể di cư qua đập. Ngoài ra, tổ “Khai Thác Thuỷ Sản Phước Hoà”
cần được thành lập và hoạt động theo hình thức đồng quản lý để chính quyền địa phương và người
dân cùng nhau quản lý nguồn lợi thuỷ sản theo hướng bền vững
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Tóm tắt nội dung tài liệu: Hiện trạng và kế hoạch quản lý nguồn lợi thuỷ sản hồ Phước Hòa
lượng nuôi trồng thủy sản tỉnh Bình Dương và Bình Phước có xu hướng tăng khá rõ rệt, nhưng lại có xu hướng giảm dần trong những năm gần đây. Sản lượng nuôi giữa 2 tỉnh không có sự khác biệt nhiều (Hình 2). Chủ yếu là nuôi lồng bè trên hồ chứa với một số đối tượng kinh tế như cá điêu hồng, cá lăng, bống tượng, cá lóc, cá trê v.v. Trong khi đó, sản lượng khai thác thuỷ sản khá thấp và đang có xu hướng giảm dần trong những năm gần đây (Hình 3). Khai thác thủy sản tỉnh Bình Phước chủ yếu phát triển ở các hồ chứa bằng các loại ngư cụ chính như lưới, câu, đú và lờ/lợp, chủ yếu là khai thác bán thời gian và để cải thiện bữa ăn trong gia đình. Sản lượng khai thác thuỷ sản trên sông Bé ước tính đạt 50 tấn (BVI, 2007), chiếm 7,94% tổng sản lượng khai thác của 2 tỉnh Bình Dương và Bình Phước. Hình 2. Sản lượng nuôi trồng thuỷ sản Hình 3. Sản lượng khai thác thuỷ sản Kết quả điều tra đã xác định được 106 loài cá thuộc 30 họ và 12 bộ phân bố trong khu vực nghiên cứu (Hình 4). Hình 4. Thành phần loài cá Hình 5. Ngu cụ khai thác 163TAÏP CHÍ NGHEÀ CAÙ SOÂNG CÖÛU LONG - 3 - THAÙNG 6/2014 VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN 2 Trong 106 loài cá nghi nhận được, có một số loài có kích thước rất lớn như cá sơn đài (Wallago leeri) nặng 55kg; cá chình (Anguilla marmorata) 5,7kg; cá lăng đỏ (Hemibagrus wyckoides) 1,3 kg; tôm càng xanh (Macrobrachium rosenbergii) 150g trên sông Bé (xã Minh Lập), cách đập Phước Hòa khoảng 25 km về phía thượng nguồn (Hình 6). Hình 6. Một số loài thủy sản khai thác có kích cỡ lớn tiêu biểu Ngoài ra, 10 loại ngư cụ khai thác thuỷ sản cũng được ghi nhận trong vùng nghiên cứu với lưới bén là phổ biến nhất (47%), kích thước mắt lưới (2a) dao động từ 1,2cm đến 16cm, phổ biến từ 4 – 6cm. Đáng chú ý kích điện là ngư cụ cấm sử dụng nhưng thực tế cũng khá phổ biến (11%). Các hoạt động khai thác trên sông Bé nhìn chung tương đối khó khăn do đây là địa hình đồi núi, lòng sông rất sâu và dòng chảy mạnh. 3.2. Đồng quản lý thuỷ sản Đối với việc khai thác và bảo vệ nguồn lợi thuỷ sản, ba tổ “Khai Thác Thuỷ Sản Phước Hoà” đã được thành lập và hoạt động theo hình thức đồng quản lý. Cơ cấu tổ chức và quản lý được thể hiện trong Hình 7. Theo đó, chính quyền địa phương trực tiếp quản lý và hỗ trợ tổ “Khai Thác Thuỷ Sản Phước Hoà” hoạt động, đồng thời kết hợp với Công ty Khai thác Thủy lợi Dầu Tiếng- Phước Hòa, Viện, Trường để tư vấn và kết hợp quản lý. Người dân có nhu cầu khai thác thuỷ sản phải tiến hành đăng ký hành nghề với chính quyền địa phương và Tổ Khai Thác Thuỷ Sản Phước Hoà và cấp thẻ khai thác thuỷ sản. Đồng thời phải tuân theo các quy định khai thác tại địa phương và quy chế hoạt động của Tổ như kích thước mắt lưới, loại ngư cụ được phép sử dụng, mùa vụ khai thác, nơi khai thác, thả cá bổ sung, lệ phí tham gia v.v. để duy trì nguồn lợi thủy trong hồ. 164 TAÏP CHÍ NGHEÀ CAÙ SOÂNG CÖÛU LONG - 3 - THAÙNG 6/2014 VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN 2 IV. THẢO LUẬN Trong khu vực nghiên cứu đã xác định được 106 loài cá thuộc 30 họ và 12 bộ (Hình 4). Kết quả này cao hơn nghiên cứu của Lâm Ngọc Châu et al., (2011) với 63 loài cá, nhưng lại thấp hơn so với kết quả của Lê Huy Bá (2011) với 166 loài cá. Sự khác biệt này là do khu vực khảo sát khác nhau: trong nghiên cứu này chỉ tập trung khảo sát trên khu vực sông Bé và kinh rạch lân cận, trong khi đó các nghiên cứu trước đây lại khảo sát trên tất cả các thuỷ vực (166 loài) và chỉ nghiên cứu trên hồ chứa nhỏ thì thành phần loài lại thấp hơn (63 loài). Dựa vào đặc điểm sinh sản và di cư của 106 loài cá và 1 loài tôm càng xanh, có thể chia thành 3 nhóm sau: Nhóm di cư lên thượng lưu: các đối tượng thuộc nhóm này thường di cư lên thượng nguồn để sinh sản, sau đó cá con trôi dạt xuống vùng hạ lưu để sinh trưởng và phát triển. Đặc trưng cho nhóm này là: cá sác (Pangasius siamensis/ macronema), cá linh (Henicorhynchus siamensis), cá dảnh (Puntioplites proctozysron). Nhóm di cư xuống hạ lưu: một số loài di cư xuống vùng cửa sông để sinh sản như tôm càng xanh (Macrobrachium rosenbergii) và cá chình (Anguilla marmorata). Sau đó cá con di cư ngược lên thượng nguồn để sinh trưởng. Nhóm ít di cư: các đối tượng trong nhóm này có khuynh hướng sống tại chỗ hay di cư đến những vùng đầm lầy để sinh sản. Một số loài đặc trưng như cá lóc (Channa striata/microlepis), cá rô đồng (Anabas testudineus), thát lát (Notopterus notopterus), cá sặc (Trichogaster trichopterus), cá trê (Clarias macrocephalus/batratrus). Hình 7. Cơ cấu tổ chức và quản lý khai thác thuỷ sản hồ Phước Hoà 165TAÏP CHÍ NGHEÀ CAÙ SOÂNG CÖÛU LONG - 3 - THAÙNG 6/2014 VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN 2 Đối với nhóm di cư lên thượng lưu và nhóm di cư xuống hạ lưu, việc xây dựng đập sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến đường di cư và tác động nghiêm trọng đến các đối tượng này. Đáng chú ý là tôm càng xanh và cá chình có đường di cư dài. Do đó, nguồn lợi các đối tượng này sẽ giảm đáng kể nếu không có các biện pháp giảm thiểu thích hợp. Baran (2006) đã nghiên cứu về tác động của lưu lượng nước đến sự di cư một số loài phổ biến ở thác Khone (Lào). Dựa vào kết quả nghiên cứu này, thành phần loài cá ở sông Bé có ít nhất 15 loài thủy sản bị ảnh hưởng khi thay đổi lưu lượng dòng chảy (Bảng 1). Bảng 1. Thành phần loài thủy sản bị ảnh hưởng ở sông Bé TT Tên khoa học Tên địa phương Mức độ ảnh hưởng 1 Paralaubuca typus Cá thiểu Cao 2 Cyclocheilichthys enoplos Cá cóc Cao 3 Bagarius spp. Cá lăng chiên Cao 4 Crossocheilus reticulatus Cá linh nút Cao 5 Barbodes altus Cá he vàng Cao 6 Thynnichthys thynnoides Cá linh cám Cao 7 Botia modesta Cá heo cái Cao 8 Macrobrachium rosenbergii Tôm càng xanh Cao 9 Bagriichthys spp. Cá chốt chuột Vừa 10 Gyrinocheilus pennocki Cá bám đá Vừa 11 Cirrhinus microlepis Cá duồng Vừa 12 Parambassis wolffii/spp. Cá sơn bầu Vừa 13 Mystacoleucus spp. Cá vảy sước Vừa 14 Morulius chrysophekadion/spp. Cá ét mọi Vừa 15 Cosmochilus harmandi Cá duồng bay Vừa Sản phẩm khai thác thủy sản đa số là để làm thức ăn trong gia đình và một phần cải thiện thu nhập: 71,93% vừa để cải thiện bữa ăn trong gia đình và một phần để bán nhằm cải thiện thu nhập; 15,79% chỉ để tiêu thụ trong gia đình; và chỉ có 12,28% chủ yếu để bán làm thu nhập chính của nông hộ. Thực tế cho thấy người dân tham gia khai thác thuỷ sản khá ít và đa số khai thác theo mùa. Kết quả phỏng vấn ngư dân cho thấy có 87,50% ngư dân cho rằng sản lượng khai thác giảm rất nhiều so với những năm gần đây, chỉ có 10,71% ngư dân cho rằng sản lượng không thay đổi. Một trong những nguyên nhân quan trọng là việc sử dụng ngư cụ cấm như kích điện và hóa chất trong khai thác thủy sản. Sản lượng trung bình đạt 5,68kg/ngày/ ngư dân (1 – 25kg/ngày/ngư dân). Đối với ngư dân khai thác chuyên nghiệp thì sản lượng khá cao, trung bình đạt 6,11kg/ngày/ngư dân, trong khi đó nhóm ngư dân khai thác không chuyên nghiệp rất thấp (2,17kg/ngày/ngư dân). Ngư dân chuyên nghiệp khai thác thường xuyên hơn (22 ngày/tháng) các ngư dân không chuyên nghiệp (6 ngày/tháng). Theo quan điểm của chính quyền địa phương thì không nên tiến hành nuôi cá trong lòng hồ. Tuy nhiên, diện tích mặt hồ khá lớn (1.269 ha) và có tiềm năng rất lớn để phát triển nuôi trồng thuỷ sản để nâng cao thu nhập cho người dân. Vì vậy, vấn đề này cần được xem xét lại, khu vực và số lượng bè/ao thích hợp không 166 TAÏP CHÍ NGHEÀ CAÙ SOÂNG CÖÛU LONG - 3 - THAÙNG 6/2014 VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN 2 ảnh hưởng đến môi trường cần được nghiên cứu một cách chi tiết trước khi tiến hành. Ngoài ra, cần xác định và thành lập một khu bảo vệ thuỷ sản: cấm tất cả các hình thức khai thác. Khu vực bảo tồn này cần được phân định rõ ràng bằng các cột trụ bao quanh, đồng thời sử dụng một số vật cản như chất chà để tạo nơi cư trú an toàn cho các loài thủy sản trong khu vực bảo tồn. Khu vực bảo tồn này đóng một vai trò quan trọng để bảo vệ nơi sinh sản và cá con phát triển nhằm duy trì nguồn lợi thủy sản trong lòng hồ. Ngoài ra, thả cá định kỳ vào hồ sẽ đóng một vai trò quan trọng trong việc duy trì nguồn lợi thủy sản và để bù đắp những loài thủy sản bị ảnh hưởng bởi đập Phước Hòa. Một số loài cá sử dụng nguồn thức ăn tự nhiên như cá chép, mè hoa, mè trắng, trắm cỏ, mè vinh v.v. cần được xem xét. Điều này sẽ góp phần đáng kể trong việc nâng cao thu nhập và việc làm cho người dân địa phương, từng bước xóa đói giảm nghèo. Bên cạnh đó, tỉnh Bình Phước đã thành lập được 5 tổ “khai thác và bảo vệ nguồn lợi thuỷ sản” và đang hoạt động dưới hình thức đồng quản lý trên các hồ chứa: Nông Trường 6, Nông Trường 4, Ông Thoại, Sa Cát, Đồng Xoài với mục đích cùng với người dân địa phương bảo vệ nguồn lợi thuỷ sản theo hướng bền vững. Tổ tiến hành họp hàng tháng, hàng quý có sự tham gia của cán bộ Phòng Thuỷ Sản (Sở NN&P- TNT) để phổ biến các quy định về khai thác và nâng cao nhận thức, đóng phí để gây quỹ nhằm phục vụ cho các hoạt động của Tổ. Ngoài ra, Sở còn hỗ trợ thả cá giống và phối hợp với các cơ quan ban ngành để giám sát. Mặc dù còn nhiều khó khăn, nhưng việc thành lập các Tổ và hoạt động dưới hình thức đồng quản lý đã đạt được những kết quả mong đợi, góp phần tích cực vào việc khai thác và bảo vệ nguồn lợi thuỷ sản. Ngoài ra, chi hội nghề cá ở hồ Easoup và hồ Lắk cũng được thành lập và hoạt động dưới hình thức đồng quản lý và đã đạt được những kết quả to lớn trong việc khai thác hợp lý và bảo vệ nguồn lợi thuỷ sản. Theo đó, mỗi chi hội có ban chủ nhiệm gồm chủ nhiệm, phó chủ nhiệm, kế toán, thủ quỹ và tổ trưởng, tiến hành họp định kỳ hàng tháng, đóng lệ phí đánh bắt, thả cá, tín dụng/tiết kiệm. Ngoài ra, chi hội còn kết hợp với chính quyền địa phương để tuần tra bảo vệ và xử lý các trường hợp vi phạm (Phan Đình Phúc et al., 2010). Do đó, chính quyền địa phương tỉnh Bình Dương và Bình Phước cần hỗ trợ việc thành lập tổ “Khai Thác Thuỷ Sản Phước Hoà” để đưa vào hoạt động nhằm quản lý hiệu quả nguồn lợi thuỷ sản. V. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT Sản lượng thuỷ sản giữa hai tỉnh Bình Dương và Bình Phước không có sự khác biệt nhiều, sản lượng khai thác khá thấp và lại có xu hướng giảm trong những năm gần đây. Nghề khai thác thủy sản đa số tập trung trong các hồ chứa và khai thác bán thời gian hay chủ yếu để cải thiện bữa ăn trong gia đình. Đã xác định được 106 loài cá thuộc 30 họ và 12 bộ. Trong đó, có một số loài có kích thước rất lớn như cá sơn đài (Wallago leeri) nặng 55kg; cá chình (Anguilla marmorata) 5,7kg; cá lăng đỏ (Hemibagrus wyckoides) 1,3kg. Đáng chú ý là có ít nhất 15 loài thủy sản có thể bị tác động nghiêm trọng khi dòng chảy thay đổi. Đã xác định được 10 loại ngư cụ khai thác thủy sản trên Sông Bé. Sản lượng trung bình đạt 5,68kg/ngày/ngư dân (1 – 25kg/ngày/ngư dân). Kết quả phỏng vấn ngư dân cho thấy có 87,50% ngư dân cho rằng sản lượng khai thác giảm rất nhiều so với những năm gần đây. Một số tổ “Khai Thác Thuỷ Sản Phước Hoà” đã được thành lập và hoạt động theo hình thức đồng quản lý, chính quyền địa phương cùng với người dân quản lý nguồn lợi thuỷ sản theo hướng bền vững. Ngoài ra, cần thành lập một khu bảo vệ thuỷ sản để bảo vệ nơi sinh sản và cá con phát triển trong lòng hồ. 167TAÏP CHÍ NGHEÀ CAÙ SOÂNG CÖÛU LONG - 3 - THAÙNG 6/2014 VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN 2 TÀI LIỆU THAM KHẢO Tài liệu tiếng Việt BVI, 2007. Kế hoạch quản lý môi trường. Black & Veatch International. Phuoc Hoa Project. Lâm Ngọc Châu, Nguyễn Phú Hoà, Lê Thanh Hùng, Vũ Cẩm Lương, 2011. Thành phần loài cá ở một số hồ chứa nhỏ ở tỉnh Đồng Nai và Bình Phước. Kỷ yếu hội nghị khoa học thuỷ sản toàn quốc. Đại học Nông Lâm Tp.HCM. Trang 345 – 353. Lê Huy Bá, 2011. Điều tra, đánh giá đa dạng sinh học tỉnh Bình Dương nhằm xây dựng giải pháp quản lý và dử dụng hợp lý. Kỷ yếu kết quả nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ tỉnh Bình Dương giai đoạn 2006 – 2010. Sở Khoa Học và Công Nghệ Bình Dương. Trang 102-108. Mai Đình Yên, 1992. Định loại các loài cá nước ngọt nam Bộ. Nhà xuất bản khoa học và kỹ thuật. Hà Nội. Tài liệu tiếng Anh Kollelat, M., 2001. Fishes of Laos. WHT Publications, 199pp. PMU9, 2007. Report on detail environmental impact assessment. Water resources investment and construction project Phuoc Hoa management unit 9. Rainboth, W. J., 1996. Fishes of the Cambodian Mekong. FAO species identification field guide for fishery purpose. Rome, 265pp. Vidthayanon, Chavalit, 2008. Field guide to Fishes of the Mekong Delta. Mekong River Commission, Vientiane, 288pp. 168 TAÏP CHÍ NGHEÀ CAÙ SOÂNG CÖÛU LONG - 3 - THAÙNG 6/2014 VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN 2 STATUS AND TOWARDS FISHERIES RESOURCES MANAGEMENT IN PHUOC HOA RESERVOIR Vu Vi An1, Nguyen Minh Nien1, Nguyen Nguyen Du1 ABSTRACT Phuoc Hoa barrage was constructed in Bé River with 51.5m of elevation, water level without dam varying 25 – 29m, 42.90m of normal water height level of the dam, 1,254ha of respective reser- voir water surface area. Fisheries resources in the project area were surveyed in the period of 2009 – 2012 to assess impacts on aquatic natural resources. In the mean time, several workshops also were organized with the attendance of local authorities to discuss and plan for fisheries resources management in Phuoc Hoa reservoir. Results showed that 106 fish species, belonging to 30 families and 12 orders were identified. Of which, there was some large species recorded such as Wallago leeri (55kg), Wallago leeri (5.7kg) and Hemibagrus wyckoides (1.3kg). It is noted that at least 15 species may be impacted when natural flow is changed. In addition, average catch was 5.68kg/day/ fisher (1 – 25kg/day/fisher). Interviewed results showed that 87.50% of fishers stated that fisheries resources decreased remarkably in recent years. The fish passage of 1.9km long was designed with a longitudinal slope varying between 0.7 and 1.43%. Water velocities would be limited to 0.6m/s. The fish passage is the first special construction work in Vietnam and will be typical for any hydropower or irrigation project in the future. The fish passage is not under operating, however at least 25 fish species were identified and may migrate through the dam. “Phuoc Hoa Fishing” group should be established and operated under co-management scheme in order for local authorities together with local people manage the fisheries resources at sustainable levels. Keywords: Phuoc Hoa dam, fisheries resources, Binh Duong, Binh Phuoc. Người phản biện: ThS. Nguyễn Đình Hùng Ngày nhận bài: 10/02/2014 Ngày thông qua phản biện: 28/02/2014 Ngày duyệt đăng: 30/3/2014 1 Inland Fisheries Resources and Capture Division, Research Institure for Aquaculture No2 Email: anria2@yahoo.com
File đính kèm:
- hien_trang_va_ke_hoach_quan_ly_nguon_loi_thuy_san_ho_phuoc_h.pdf