Hiện trạng và kế hoạch quản lý nguồn lợi thuỷ sản hồ Phước Hòa

TÓM TẮT

Đập thuỷ lợi Phước Hoà mới được xây trên sông Bé có cao trình là 51,5m, mực nước sông khi chưa

có đập dao động trong khoảng 25 – 29m, mực nước hồ sau khi đập được xây dựng là 42,90m, tương

ứng với diện tích mặt hồ khoảng 1.269ha. Để đánh giá tác động của đập, nguồn lợi thuỷ sản trong

khu vực Dự án được nghiên cứu trong giai đoạn 2009 – 2012. Đồng thời các cuộc hội thảo cũng

được tổ chức với sự tham gia của chính quyền địa phương để thảo luận về kế hoạch quản lý thuỷ

sản ở hồ Phước Hoà. Kết quả cho thấy đã xác định được 106 loài cá thuộc 30 họ và 12 bộ. Trong đó,

có một số loài có kích thước rất lớn như cá sơn đài (Wallago leeri) nặng 55kg; cá chình (Anguilla

marmorata) 5,7kg; cá lăng đỏ (Hemibagrus wyckoides) 1,3kg. Đáng chú ý là có ít nhất 15 loài thủy

sản có thể bị tác động nghiêm trọng khi dòng chảy bị thay đổi. Kết quả phỏng vấn ngư dân cho thấy

sản lượng trung bình đạt 5,68kg/ngày/ngư dân (1 – 25kg/ngày/ngư dân), có đến 87,50% ngư dân

cho rằng sản lượng khai thác giảm đáng kể so với những năm gần đây. Đường dẫn cá qua đập Phước

Hoà dài 1,9km đã được xây dựng, có mái dốc dọc thay đổi từ 0,7 đến 1,43%. Vận tốc nước sẽ được

giới hạn khoảng 0,6m/s. Đây là đường dẫn cá được xây dựng đầu tiên ở Việt Nam và là công trình

điển hình cho các dự án thuỷ điện/lợi sau này. Hiện tại đường dẫn cá chưa đi vào hoạt động, nhưng

đã xác định được ít nhất 25 loài có thể di cư qua đập. Ngoài ra, tổ “Khai Thác Thuỷ Sản Phước Hoà”

cần được thành lập và hoạt động theo hình thức đồng quản lý để chính quyền địa phương và người

dân cùng nhau quản lý nguồn lợi thuỷ sản theo hướng bền vững

Hiện trạng và kế hoạch quản lý nguồn lợi thuỷ sản hồ Phước Hòa trang 1

Trang 1

Hiện trạng và kế hoạch quản lý nguồn lợi thuỷ sản hồ Phước Hòa trang 2

Trang 2

Hiện trạng và kế hoạch quản lý nguồn lợi thuỷ sản hồ Phước Hòa trang 3

Trang 3

Hiện trạng và kế hoạch quản lý nguồn lợi thuỷ sản hồ Phước Hòa trang 4

Trang 4

Hiện trạng và kế hoạch quản lý nguồn lợi thuỷ sản hồ Phước Hòa trang 5

Trang 5

Hiện trạng và kế hoạch quản lý nguồn lợi thuỷ sản hồ Phước Hòa trang 6

Trang 6

Hiện trạng và kế hoạch quản lý nguồn lợi thuỷ sản hồ Phước Hòa trang 7

Trang 7

Hiện trạng và kế hoạch quản lý nguồn lợi thuỷ sản hồ Phước Hòa trang 8

Trang 8

Hiện trạng và kế hoạch quản lý nguồn lợi thuỷ sản hồ Phước Hòa trang 9

Trang 9

pdf 9 trang xuanhieu 9340
Bạn đang xem tài liệu "Hiện trạng và kế hoạch quản lý nguồn lợi thuỷ sản hồ Phước Hòa", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Hiện trạng và kế hoạch quản lý nguồn lợi thuỷ sản hồ Phước Hòa

Hiện trạng và kế hoạch quản lý nguồn lợi thuỷ sản hồ Phước Hòa
lượng nuôi trồng thủy sản tỉnh Bình 
Dương và Bình Phước có xu hướng tăng khá rõ 
rệt, nhưng lại có xu hướng giảm dần trong những 
năm gần đây. Sản lượng nuôi giữa 2 tỉnh không 
có sự khác biệt nhiều (Hình 2). Chủ yếu là nuôi 
lồng bè trên hồ chứa với một số đối tượng kinh 
tế như cá điêu hồng, cá lăng, bống tượng, cá 
lóc, cá trê v.v. Trong khi đó, sản lượng khai thác 
thuỷ sản khá thấp và đang có xu hướng giảm 
dần trong những năm gần đây (Hình 3). Khai 
thác thủy sản tỉnh Bình Phước chủ yếu phát 
triển ở các hồ chứa bằng các loại ngư cụ chính 
như lưới, câu, đú và lờ/lợp, chủ yếu là khai thác 
bán thời gian và để cải thiện bữa ăn trong gia 
đình. Sản lượng khai thác thuỷ sản trên sông Bé 
ước tính đạt 50 tấn (BVI, 2007), chiếm 7,94% 
tổng sản lượng khai thác của 2 tỉnh Bình Dương 
và Bình Phước.
Hình 2. Sản lượng nuôi trồng thuỷ sản Hình 3. Sản lượng khai thác thuỷ sản
Kết quả điều tra đã xác định được 106 loài cá thuộc 30 họ và 12 bộ phân bố trong khu vực 
nghiên cứu (Hình 4). 
Hình 4. Thành phần loài cá Hình 5. Ngu cụ khai thác
163TAÏP CHÍ NGHEÀ CAÙ SOÂNG CÖÛU LONG - 3 - THAÙNG 6/2014
VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN 2
Trong 106 loài cá nghi nhận được, có 
một số loài có kích thước rất lớn như cá sơn 
đài (Wallago leeri) nặng 55kg; cá chình 
(Anguilla marmorata) 5,7kg; cá lăng đỏ 
(Hemibagrus wyckoides) 1,3 kg; tôm càng xanh 
(Macrobrachium rosenbergii) 150g trên sông 
Bé (xã Minh Lập), cách đập Phước Hòa khoảng 
25 km về phía thượng nguồn (Hình 6).
Hình 6. Một số loài thủy sản khai thác có kích cỡ lớn tiêu biểu
Ngoài ra, 10 loại ngư cụ khai thác thuỷ sản 
cũng được ghi nhận trong vùng nghiên cứu với 
lưới bén là phổ biến nhất (47%), kích thước 
mắt lưới (2a) dao động từ 1,2cm đến 16cm, 
phổ biến từ 4 – 6cm. Đáng chú ý kích điện là 
ngư cụ cấm sử dụng nhưng thực tế cũng khá 
phổ biến (11%). Các hoạt động khai thác trên 
sông Bé nhìn chung tương đối khó khăn do đây 
là địa hình đồi núi, lòng sông rất sâu và dòng 
chảy mạnh.
3.2. Đồng quản lý thuỷ sản
Đối với việc khai thác và bảo vệ nguồn lợi 
thuỷ sản, ba tổ “Khai Thác Thuỷ Sản Phước 
Hoà” đã được thành lập và hoạt động theo hình 
thức đồng quản lý. Cơ cấu tổ chức và quản lý 
được thể hiện trong Hình 7. Theo đó, chính 
quyền địa phương trực tiếp quản lý và hỗ trợ tổ 
“Khai Thác Thuỷ Sản Phước Hoà” hoạt động, 
đồng thời kết hợp với Công ty Khai thác Thủy 
lợi Dầu Tiếng- Phước Hòa, Viện, Trường để tư 
vấn và kết hợp quản lý.
Người dân có nhu cầu khai thác thuỷ sản 
phải tiến hành đăng ký hành nghề với chính 
quyền địa phương và Tổ Khai Thác Thuỷ Sản 
Phước Hoà và cấp thẻ khai thác thuỷ sản. Đồng 
thời phải tuân theo các quy định khai thác tại 
địa phương và quy chế hoạt động của Tổ như 
kích thước mắt lưới, loại ngư cụ được phép sử 
dụng, mùa vụ khai thác, nơi khai thác, thả cá bổ 
sung, lệ phí tham gia v.v. để duy trì nguồn lợi 
thủy trong hồ.
164 TAÏP CHÍ NGHEÀ CAÙ SOÂNG CÖÛU LONG - 3 - THAÙNG 6/2014
VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN 2
IV. THẢO LUẬN
Trong khu vực nghiên cứu đã xác định 
được 106 loài cá thuộc 30 họ và 12 bộ (Hình 4). 
Kết quả này cao hơn nghiên cứu của Lâm Ngọc 
Châu et al., (2011) với 63 loài cá, nhưng lại thấp 
hơn so với kết quả của Lê Huy Bá (2011) với 166 
loài cá. Sự khác biệt này là do khu vực khảo sát 
khác nhau: trong nghiên cứu này chỉ tập trung 
khảo sát trên khu vực sông Bé và kinh rạch lân 
cận, trong khi đó các nghiên cứu trước đây lại 
khảo sát trên tất cả các thuỷ vực (166 loài) và 
chỉ nghiên cứu trên hồ chứa nhỏ thì thành phần 
loài lại thấp hơn (63 loài). Dựa vào đặc điểm 
sinh sản và di cư của 106 loài cá và 1 loài tôm 
càng xanh, có thể chia thành 3 nhóm sau:
Nhóm di cư lên thượng lưu: các đối tượng 
thuộc nhóm này thường di cư lên thượng nguồn 
để sinh sản, sau đó cá con trôi dạt xuống vùng 
hạ lưu để sinh trưởng và phát triển. Đặc trưng 
cho nhóm này là: cá sác (Pangasius siamensis/
macronema), cá linh (Henicorhynchus 
siamensis), cá dảnh (Puntioplites proctozysron).
Nhóm di cư xuống hạ lưu: một số loài di 
cư xuống vùng cửa sông để sinh sản như tôm 
càng xanh (Macrobrachium rosenbergii) và cá 
chình (Anguilla marmorata). Sau đó cá con di 
cư ngược lên thượng nguồn để sinh trưởng.
Nhóm ít di cư: các đối tượng trong nhóm 
này có khuynh hướng sống tại chỗ hay di cư đến 
những vùng đầm lầy để sinh sản. Một số loài đặc 
trưng như cá lóc (Channa striata/microlepis), cá 
rô đồng (Anabas testudineus), thát lát (Notopterus 
notopterus), cá sặc (Trichogaster trichopterus), 
cá trê (Clarias macrocephalus/batratrus).
Hình 7. Cơ cấu tổ chức và quản lý khai thác thuỷ sản hồ Phước Hoà
165TAÏP CHÍ NGHEÀ CAÙ SOÂNG CÖÛU LONG - 3 - THAÙNG 6/2014
VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN 2
Đối với nhóm di cư lên thượng lưu và nhóm di 
cư xuống hạ lưu, việc xây dựng đập sẽ ảnh hưởng 
trực tiếp đến đường di cư và tác động nghiêm 
trọng đến các đối tượng này. Đáng chú ý là tôm 
càng xanh và cá chình có đường di cư dài. Do đó, 
nguồn lợi các đối tượng này sẽ giảm đáng kể nếu 
không có các biện pháp giảm thiểu thích hợp.
Baran (2006) đã nghiên cứu về tác động 
của lưu lượng nước đến sự di cư một số loài 
phổ biến ở thác Khone (Lào). Dựa vào kết quả 
nghiên cứu này, thành phần loài cá ở sông Bé có 
ít nhất 15 loài thủy sản bị ảnh hưởng khi thay 
đổi lưu lượng dòng chảy (Bảng 1).
Bảng 1. Thành phần loài thủy sản bị ảnh hưởng ở sông Bé 
TT Tên khoa học Tên địa phương Mức độ ảnh hưởng
1 Paralaubuca typus Cá thiểu Cao
2 Cyclocheilichthys enoplos Cá cóc Cao
3 Bagarius spp. Cá lăng chiên Cao
4 Crossocheilus reticulatus Cá linh nút Cao
5 Barbodes altus Cá he vàng Cao
6 Thynnichthys thynnoides Cá linh cám Cao
7 Botia modesta Cá heo cái Cao
8 Macrobrachium rosenbergii Tôm càng xanh Cao
9 Bagriichthys spp. Cá chốt chuột Vừa
10 Gyrinocheilus pennocki Cá bám đá Vừa
11 Cirrhinus microlepis Cá duồng Vừa
12 Parambassis wolffii/spp. Cá sơn bầu Vừa
13 Mystacoleucus spp. Cá vảy sước Vừa
14 Morulius chrysophekadion/spp. Cá ét mọi Vừa
15 Cosmochilus harmandi Cá duồng bay Vừa
Sản phẩm khai thác thủy sản đa số là để 
làm thức ăn trong gia đình và một phần cải thiện 
thu nhập: 71,93% vừa để cải thiện bữa ăn trong 
gia đình và một phần để bán nhằm cải thiện thu 
nhập; 15,79% chỉ để tiêu thụ trong gia đình; 
và chỉ có 12,28% chủ yếu để bán làm thu nhập 
chính của nông hộ. Thực tế cho thấy người dân 
tham gia khai thác thuỷ sản khá ít và đa số khai 
thác theo mùa.
Kết quả phỏng vấn ngư dân cho thấy có 
87,50% ngư dân cho rằng sản lượng khai thác 
giảm rất nhiều so với những năm gần đây, chỉ 
có 10,71% ngư dân cho rằng sản lượng không 
thay đổi. Một trong những nguyên nhân quan 
trọng là việc sử dụng ngư cụ cấm như kích điện 
và hóa chất trong khai thác thủy sản. 
Sản lượng trung bình đạt 5,68kg/ngày/
ngư dân (1 – 25kg/ngày/ngư dân). Đối với ngư 
dân khai thác chuyên nghiệp thì sản lượng khá 
cao, trung bình đạt 6,11kg/ngày/ngư dân, trong 
khi đó nhóm ngư dân khai thác không chuyên 
nghiệp rất thấp (2,17kg/ngày/ngư dân). Ngư dân 
chuyên nghiệp khai thác thường xuyên hơn (22 
ngày/tháng) các ngư dân không chuyên nghiệp 
(6 ngày/tháng).
Theo quan điểm của chính quyền địa 
phương thì không nên tiến hành nuôi cá trong 
lòng hồ. Tuy nhiên, diện tích mặt hồ khá lớn 
(1.269 ha) và có tiềm năng rất lớn để phát triển 
nuôi trồng thuỷ sản để nâng cao thu nhập cho 
người dân. Vì vậy, vấn đề này cần được xem xét 
lại, khu vực và số lượng bè/ao thích hợp không 
166 TAÏP CHÍ NGHEÀ CAÙ SOÂNG CÖÛU LONG - 3 - THAÙNG 6/2014
VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN 2
ảnh hưởng đến môi trường cần được nghiên cứu 
một cách chi tiết trước khi tiến hành.
Ngoài ra, cần xác định và thành lập một khu 
bảo vệ thuỷ sản: cấm tất cả các hình thức khai 
thác. Khu vực bảo tồn này cần được phân định 
rõ ràng bằng các cột trụ bao quanh, đồng thời 
sử dụng một số vật cản như chất chà để tạo nơi 
cư trú an toàn cho các loài thủy sản trong khu 
vực bảo tồn. Khu vực bảo tồn này đóng một vai 
trò quan trọng để bảo vệ nơi sinh sản và cá con 
phát triển nhằm duy trì nguồn lợi thủy sản trong 
lòng hồ.
Ngoài ra, thả cá định kỳ vào hồ sẽ đóng một 
vai trò quan trọng trong việc duy trì nguồn lợi 
thủy sản và để bù đắp những loài thủy sản bị 
ảnh hưởng bởi đập Phước Hòa. Một số loài cá 
sử dụng nguồn thức ăn tự nhiên như cá chép, mè 
hoa, mè trắng, trắm cỏ, mè vinh v.v. cần được 
xem xét. Điều này sẽ góp phần đáng kể trong 
việc nâng cao thu nhập và việc làm cho người 
dân địa phương, từng bước xóa đói giảm nghèo.
Bên cạnh đó, tỉnh Bình Phước đã thành lập 
được 5 tổ “khai thác và bảo vệ nguồn lợi thuỷ 
sản” và đang hoạt động dưới hình thức đồng 
quản lý trên các hồ chứa: Nông Trường 6, Nông 
Trường 4, Ông Thoại, Sa Cát, Đồng Xoài với 
mục đích cùng với người dân địa phương bảo 
vệ nguồn lợi thuỷ sản theo hướng bền vững. Tổ 
tiến hành họp hàng tháng, hàng quý có sự tham 
gia của cán bộ Phòng Thuỷ Sản (Sở NN&P-
TNT) để phổ biến các quy định về khai thác và 
nâng cao nhận thức, đóng phí để gây quỹ nhằm 
phục vụ cho các hoạt động của Tổ. Ngoài ra, Sở 
còn hỗ trợ thả cá giống và phối hợp với các cơ 
quan ban ngành để giám sát. Mặc dù còn nhiều 
khó khăn, nhưng việc thành lập các Tổ và hoạt 
động dưới hình thức đồng quản lý đã đạt được 
những kết quả mong đợi, góp phần tích cực vào 
việc khai thác và bảo vệ nguồn lợi thuỷ sản.
Ngoài ra, chi hội nghề cá ở hồ Easoup và 
hồ Lắk cũng được thành lập và hoạt động dưới 
hình thức đồng quản lý và đã đạt được những 
kết quả to lớn trong việc khai thác hợp lý và 
bảo vệ nguồn lợi thuỷ sản. Theo đó, mỗi chi 
hội có ban chủ nhiệm gồm chủ nhiệm, phó chủ 
nhiệm, kế toán, thủ quỹ và tổ trưởng, tiến hành 
họp định kỳ hàng tháng, đóng lệ phí đánh bắt, 
thả cá, tín dụng/tiết kiệm. Ngoài ra, chi hội còn 
kết hợp với chính quyền địa phương để tuần tra 
bảo vệ và xử lý các trường hợp vi phạm (Phan 
Đình Phúc et al., 2010). Do đó, chính quyền địa 
phương tỉnh Bình Dương và Bình Phước cần 
hỗ trợ việc thành lập tổ “Khai Thác Thuỷ Sản 
Phước Hoà” để đưa vào hoạt động nhằm quản 
lý hiệu quả nguồn lợi thuỷ sản.
 V. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT
Sản lượng thuỷ sản giữa hai tỉnh Bình 
Dương và Bình Phước không có sự khác biệt 
nhiều, sản lượng khai thác khá thấp và lại có 
xu hướng giảm trong những năm gần đây. Nghề 
khai thác thủy sản đa số tập trung trong các hồ 
chứa và khai thác bán thời gian hay chủ yếu để 
cải thiện bữa ăn trong gia đình.
Đã xác định được 106 loài cá thuộc 30 họ và 
12 bộ. Trong đó, có một số loài có kích thước rất 
lớn như cá sơn đài (Wallago leeri) nặng 55kg; 
cá chình (Anguilla marmorata) 5,7kg; cá lăng 
đỏ (Hemibagrus wyckoides) 1,3kg. Đáng chú ý 
là có ít nhất 15 loài thủy sản có thể bị tác động 
nghiêm trọng khi dòng chảy thay đổi.
Đã xác định được 10 loại ngư cụ khai thác 
thủy sản trên Sông Bé. Sản lượng trung bình đạt 
5,68kg/ngày/ngư dân (1 – 25kg/ngày/ngư dân). 
Kết quả phỏng vấn ngư dân cho thấy có 87,50% 
ngư dân cho rằng sản lượng khai thác giảm rất 
nhiều so với những năm gần đây.
Một số tổ “Khai Thác Thuỷ Sản Phước 
Hoà” đã được thành lập và hoạt động theo hình 
thức đồng quản lý, chính quyền địa phương 
cùng với người dân quản lý nguồn lợi thuỷ sản 
theo hướng bền vững. Ngoài ra, cần thành lập 
một khu bảo vệ thuỷ sản để bảo vệ nơi sinh sản 
và cá con phát triển trong lòng hồ.
167TAÏP CHÍ NGHEÀ CAÙ SOÂNG CÖÛU LONG - 3 - THAÙNG 6/2014
VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN 2
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tài liệu tiếng Việt
BVI, 2007. Kế hoạch quản lý môi trường. Black & 
Veatch International. Phuoc Hoa Project.
Lâm Ngọc Châu, Nguyễn Phú Hoà, Lê Thanh Hùng, 
Vũ Cẩm Lương, 2011. Thành phần loài cá ở một 
số hồ chứa nhỏ ở tỉnh Đồng Nai và Bình Phước. 
Kỷ yếu hội nghị khoa học thuỷ sản toàn quốc. Đại 
học Nông Lâm Tp.HCM. Trang 345 – 353.
Lê Huy Bá, 2011. Điều tra, đánh giá đa dạng sinh học 
tỉnh Bình Dương nhằm xây dựng giải pháp quản 
lý và dử dụng hợp lý. Kỷ yếu kết quả nghiên cứu 
khoa học và phát triển công nghệ tỉnh Bình Dương 
giai đoạn 2006 – 2010. Sở Khoa Học và Công 
Nghệ Bình Dương. Trang 102-108.
Mai Đình Yên, 1992. Định loại các loài cá nước ngọt nam 
Bộ. Nhà xuất bản khoa học và kỹ thuật. Hà Nội.
Tài liệu tiếng Anh
Kollelat, M., 2001. Fishes of Laos. WHT Publications, 
199pp.
PMU9, 2007. Report on detail environmental impact 
assessment. Water resources investment and 
construction project Phuoc Hoa management unit 9. 
Rainboth, W. J., 1996. Fishes of the Cambodian 
Mekong. FAO species identification field guide 
for fishery purpose. Rome, 265pp.
Vidthayanon, Chavalit, 2008. Field guide to Fishes of 
the Mekong Delta. Mekong River Commission, 
Vientiane, 288pp.
168 TAÏP CHÍ NGHEÀ CAÙ SOÂNG CÖÛU LONG - 3 - THAÙNG 6/2014
VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN 2
STATUS AND TOWARDS FISHERIES RESOURCES MANAGEMENT IN 
PHUOC HOA RESERVOIR
Vu Vi An1, Nguyen Minh Nien1, Nguyen Nguyen Du1
ABSTRACT
Phuoc Hoa barrage was constructed in Bé River with 51.5m of elevation, water level without dam 
varying 25 – 29m, 42.90m of normal water height level of the dam, 1,254ha of respective reser-
voir water surface area. Fisheries resources in the project area were surveyed in the period of 2009 
– 2012 to assess impacts on aquatic natural resources. In the mean time, several workshops also 
were organized with the attendance of local authorities to discuss and plan for fisheries resources 
management in Phuoc Hoa reservoir. Results showed that 106 fish species, belonging to 30 families 
and 12 orders were identified. Of which, there was some large species recorded such as Wallago 
leeri (55kg), Wallago leeri (5.7kg) and Hemibagrus wyckoides (1.3kg). It is noted that at least 15 
species may be impacted when natural flow is changed. In addition, average catch was 5.68kg/day/
fisher (1 – 25kg/day/fisher). Interviewed results showed that 87.50% of fishers stated that fisheries 
resources decreased remarkably in recent years. The fish passage of 1.9km long was designed with a 
longitudinal slope varying between 0.7 and 1.43%. Water velocities would be limited to 0.6m/s. The 
fish passage is the first special construction work in Vietnam and will be typical for any hydropower 
or irrigation project in the future. The fish passage is not under operating, however at least 25 fish 
species were identified and may migrate through the dam. “Phuoc Hoa Fishing” group should be 
established and operated under co-management scheme in order for local authorities together with 
local people manage the fisheries resources at sustainable levels.
Keywords: Phuoc Hoa dam, fisheries resources, Binh Duong, Binh Phuoc.
Người phản biện: ThS. Nguyễn Đình Hùng
Ngày nhận bài: 10/02/2014
Ngày thông qua phản biện: 28/02/2014
Ngày duyệt đăng: 30/3/2014
1 Inland Fisheries Resources and Capture Division, Research Institure for Aquaculture No2 
 Email: anria2@yahoo.com

File đính kèm:

  • pdfhien_trang_va_ke_hoach_quan_ly_nguon_loi_thuy_san_ho_phuoc_h.pdf