Góp ý xây dựng nghị định quy định chi tiết về biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ
Chế định bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trong Bộ luật Dân sự năm 2015
được nhìn nhận là kết quả của sự kế thừa Bộ luật Dân sự năm 2005
và việc vận dụng kinh nghiệm nước ngoài. Tuy nhiên, ở góc nhìn thực
tiễn, kết quả này chưa đáp ứng được kỳ vọng. Hơn nữa, một số luật
chuyên ngành như luật đất đai, luật nhà ở, . quy định về bảo đảm
thực hiện nghĩa vụ theo những cách thức khác nhau và ít nhiều có
mâu thuẫn với Bộ luật Dân sự, gây khó khăn cho việc thực thi khung
pháp lý của bảo đảm thực hiện nghĩa vụ. Trong bối cảnh đó, yêu cầu
được đặt ra là cần xác định những nội dung của Nghị định quy định
chi tiết về biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ nhằm thực thi có
hiệu quả chế định bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trong BLDS năm 2015.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Tóm tắt nội dung tài liệu: Góp ý xây dựng nghị định quy định chi tiết về biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ
ăn chặn việc áp dụng quy định này, tránh rắc rối do có nhiều chủ nợ đòi có quyền ưu tiên đối với tài sản bảo đảm. Đặc biệt, trong trường hợp tài sản bảo đảm được đăng ký thì chủ nợ có bảo đảm giữ bản chính giấy chứng nhận đăng ký với nhiều kỳ vọng6: bên bảo đảm không có điều kiện để tiếp tục dùng tài sản đó bảo đảm nghĩa vụ khác, do... không xuất trình được bản chính giấy chứng nhận đăng ký; trong trường hợp có yêu cầu xử lý tài sản để thanh toán nhiều món nợ, thì việc nắm giữ giấy chứng nhận đăng ký cho phép chủ nợ giữ lợi thế trong việc nhận tiền thanh toán;... - Hình thức xác lập giao dịch bảo đảm: Trên nguyên tắc, hợp đồng bảo đảm được xác lập theo luật chung. Tuy nhiên, bảo đảm nghĩa vụ là một giao dịch quan trọng và có thể gây nhiều rủi ro cho bên bảo đảm. Bởi vậy, cần có quy định chặt chẽ về hình thức xác lập giao dịch để bên bảo đảm có thể có được sự cảnh báo về tính chất, tầm quan trọng của giao dịch được xác lập; từ đó, có sự chuẩn bị cần thiết để quản lý rủi ro. Ví dụ, ở Pháp, bên bảo lãnh phải tự ghi một câu gì đó thể hiện sự nhận thức đầy đủ về tính chất 6 Tình trạng “ám thị” của giấy chứng nhận chi phối cả suy nghĩ của người làm luật. Bởi vậy, trong BLDS có các quy định về việc giao giấy tờ cho bên nhận bảo đảm không chỉ như một cách xác nhận quan hệ bảo đảm mà còn như một cách bảo đảm an toàn tương tự như cầm giữ tài sản (xem ví dụ như khoản 1 Điều 320 BLDS): một khi giấy chứng nhận đăng ký tài sản được bên nhận bảo đảm nắm giữ, thì quyền sở hữu tài sản không thể được chuyển dịch. Số 24 (424) - T12/202026 NGHIÊN CỨU LẬP PHÁP THỰC TIỄN PHÁP LUẬT của quan hệ, trước khi đặt bút ký vào hợp đồng bảo lãnh7. - Quyền truy đòi: Quyền truy đòi được ghi nhận trong BLDS như là một phần hiệu lực đối kháng của biện pháp bảo đảm trong quan hệ với người thứ ba. Tuy nhiên, BLDS năm 2015 không làm rõ nội dung của quyền. Hiện nay, có hai cách hiểu rất phổ biến về quyền truy đòi: thứ nhất, quyền truy đòi là quyền yêu cầu tuyên bố vô hiệu đối với giao dịch chuyển nhượng tài sản bảo đảm với lý do giao dịch được xác lập mà không có sự đồng ý của chủ nợ nhận bảo đảm8; thứ hai, quyền truy đòi là quyền yêu cầu người đang nắm giữ tài sản giao trả tài sản để trở về tình trạng ban đầu. Tuy nhiên, dưới góc độ khoa học luật, hai cách hiểu này đều chưa đúng với bản chất của quyền. Ở đây, điều cần nhấn mạnh là quyền truy đòi không hề bao hàm quyền phủ nhận quyền của chủ thể khác đối với tài sản. Chủ thể quyền truy đòi xuất hiện trước người nắm giữ tài sản và thực hiện quyền của mình mà không bận tâm đến quyền, đến tư cách của người nắm giữ tài sản trong mối quan hệ với tài sản đó. Nói cách khác, quyền truy đòi mở ra hành lang để chủ nợ theo đuổi tài sản trong quá trình lưu thông và khẳng định quyền của chủ nợ có bảo đảm, chứ không được sử dụng để tấn công, phủ định quyền của chủ thể khác đối với tài sản đó. Về phần mình, chủ thể nắm giữ tài sản phải tôn trọng quyền của chủ nợ có bảo đảm. Với quyền truy đòi, biện pháp bảo đảm nghĩa vụ không gây cản trở đối với sự lưu thông của tài sản trong khuôn khổ thực hiện các quyền của chủ sở hữu đối với tài sản, đặc biệt là quyền định đoạt. Chủ sở hữu có quyền chuyển nhượng tài sản; người nhận chuyển nhượng phải biết về tình trạng pháp lý của tài sản và phải tự mình xây dựng đối sách hợp pháp để quản lý rủi ro. Trong luật của Pháp, quyền truy đòi (droit de suite) của chủ nợ có bảo đảm đối vật là quyền cho phép chủ nợ thực hiện các quyền được luật thừa nhận cho mình đối với tài sản bất kể tài sản đang được chủ thể nào nắm giữ với bất kỳ tư cách nào. Quyền truy đòi của chủ nợ có bảo đảm chỉ phát sinh hiệu lực khi nợ có bảo đảm đã đến hạn và không được trả; do đó, cần triển khai thực hiện biện pháp bảo đảm để thu hồi nợ. Vấn đề không có gì đặc biệt trong trường hợp tài sản đang được chủ nợ có bảo đảm nắm giữ (như chủ nợ nhận cầm cố) hoặc đang được bên bảo đảm nắm giữ (như bên thế chấp). Tuy nhiên, sự việc sẽ rắc rối một khi tài sản đang nằm trong tay người khác không phải là một bên trong quan hệ bảo đảm nghĩa vụ; quyền truy đòi có tác dụng giúp chủ nợ có bảo đảm giải quyết rắc rối đó. - Xử lý tài sản bảo đảm: Theo quy định của Điều 301 BLDS năm 2015, trường hợp người đang giữ tài sản không giao tài sản thì bên nhận bảo đảm có quyền yêu cầu toà án giải quyết, trừ trường hợp luật liên quan có quy định khác. Quy định này cho thấy, quyền truy đòi của chủ nợ có bảo đảm, còn đối với vấn đề xử lý như thế nào, thì câu trả lời vẫn phải dựa vào các quy định chung về bắt buộc trả nợ bằng con đường toà án. Ở Pháp, chủ nợ có bảo đảm mà quyền chủ nợ được ghi nhận trong một chứng thư công chứng có quyền sử dụng chứng thư đó như một bản án để yêu cầu tiến hành cưỡng chế việc thực hiện quyền của chủ nợ9. Chẳng hạn, trong trường hợp tài sản được thế chấp và nợ không được trả thì chủ nợ nhận thế chấp có quyền yêu cầu cơ quan thi hành án tiến hành cưỡng chế việc xử lý tài sản trong khuôn khổ thi hành chứng thư công chứng về thế chấp tài sản. Ở Mỹ, luật cho phép chủ nợ có bảo đảm, trong trường hợp nợ không được trả, thực hiện việc thu giữ tài sản bảo đảm và xử lý để thu hồi nợ10. Quyền thu giữ, gọi là self- help trong luật của Mỹ, được thực hiện trong 7 Ph. Simler và Ph. Delebecque, Droit civil – Les suretés. La publicité foncière, Dalloz, 2009, tr.125 đến 130. Luật không quy định rõ một hoặc nhiều mẫu câu thể hiện sự ưng thuận. Thực tiễn tự đặt ra những yêu cầu đối với bên bảo lãnh, tuỳ trường hợp, để được coi là đã thể hiện sự nhận thức đầy đủ của bản thân về tầm quan trọng của việc mình làm. Ví dụ, bảo lãnh việc trả một số nợ nào đó thì phải ghi “đồng ý bảo lãnh số nợ ....” sau đó phải ghi nhận giá trị của khoản nợ bằng số và bằng chữ. 8 Xem Đỗ Văn Đại, Vật quyền bảo đảm: kinh nghiệm nước ngoài cho Việt Nam, Tạp chí Khoa học pháp lý Việt Nam, số 01 (86)/2015, tr. 57-65. 9 Xem Ph. Simler và Ph, Delebecque, Droit civil – Les suretés. La publicité foncière, đã dẫn, tr. 355-356. 10 Xem, Nguyễn Ngọc Điện, Quyền tự bảo vệ: điểm mới trong BLDS năm 2015, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 1+2 (333+334), 2017. 27Số 24 (424) - T12/2020 NGHIÊN CỨU LẬP PHÁP THỰC TIỄN PHÁP LUẬT những điều kiện ngặt nghèo và theo thể thức chặt chẽ, ngăn chặn sự lạm dụng, đặc biệt là ngăn chặn nguy cơ xung đột dẫn đến bạo động, mất trật tự. 4. Về các nội dung khác - Xác định tài sản có thể cầm cố Một khi đã xác định “cầm cố là việc giao tài sản”, thì việc cầm cố phải có tác dụng vô hiệu hoá việc sử dụng tài sản của bên cầm cố. Những tài sản không thể chiếm hữu được, nghĩa là không thể giao được về phương diện vật lý, không thể cầm cố. Cụ thể, không thể cầm cố quyền sở hữu trí tuệ. Ngay cả trong trường hợp quyền sở hữu trí tuệ được xác lập bằng cách đăng ký theo quy định của pháp luật, như trường hợp một số quyền sở hữu công nghiệp và chủ sở hữu giao bản chính giấy chứng nhận đăng ký quyền sở hữu cho chủ nợ để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ. - Tài sản có thể bảo lưu quyền sở hữu BLDS năm 2015 không xác định rõ loại tài sản nào có thể bảo lưu quyền sở hữu. Tuy nhiên, qua các điều luật liên quan, đặc biệt là Điều 333 về quyền và nghĩa vụ của bên mua tài sản, có thể thừa nhận rằng khi xây dựng chế định bảo lưu quyền sở hữu, người làm luật quan tâm đến tài sản hữu hình và sau khi được chuyển giao cho bên mua thì trở thành tài sản đặc định trong sản nghiệp của bên mua. Về mặt lý thuyết, bảo lưu quyền sở hữu có thể được xác lập đối với bất kỳ tài sản nào, kể cả tài sản vô hình, vật cùng loại. Điều quan trọng, để việc bảo lưu quyền sở hữu thể hiện được tác dụng bảo đảm nghĩa vụ, là tài sản mà quyền sở hữu được bảo lưu còn hiện hữu trong sản nghiệp của bên bảo đảm ở thời điểm cần thực hiện quyền của chủ nợ có bảo đảm. Ngay cả trong trường hợp, nếu tài sản được chuyển nhượng cho người khác, thì chủ nợ có bảo đảm được thực hiện quyền truy đòi trong chừng mực tài sản còn nhận diện được, trừ trường hợp cần bảo vệ người thứ ba ngay tình. Chủ nợ có bảo đảm cũng có quyền yêu cầu bên bảo đảm hoàn trả tài sản bằng giá trị và bồi thường thiệt hại, nếu có. Trong trường hợp tài sản mà quyền sở hữu được bảo lưu bị tiêu huỷ, thì nên thừa nhận rằng chủ nợ có bảo đảm có quyền thực hiện các quyền của chủ nợ có bảo đảm đối với số tiền bồi thường do tổ chức bảo hiểm chi trả. - Quyền ưu tiên lấy trước của một số chủ nợ Nhiều trường hợp, một số chủ nợ đòi quyền được thanh toán ưu tiên từ tiền bán tài sản bảo đảm trước cả chủ nợ có bảo đảm với lý do có phần tài sản của mình trong tài sản bảo đảm. Ví dụ, bên bán vật liệu xây dựng đòi được ưu tiên lấy trước chủ nợ nhận thế chấp đối với nhà ở được thế chấp với lý do nhà được xây dựng bằng vật liệu do bên này cung cấp. Trong khoa học luật, yêu cầu của bên bán vật liệu xây dựng trong trường hợp này được gọi là yêu cầu có quyền ưu tiên lấy trước (privilege). Quyền ưu tiên lấy trước được thừa nhận cho một số chủ nợ không có bảo đảm, cho phép chủ nợ được xếp ưu tiên trong thứ tự nhận tiền thanh toán trước cả chủ nợ có bảo đảm đối vật. Tuy nhiên, để tránh sự đòi hỏi tuỳ tiện, pháp luật thường lập sẵn danh sách quyền ưu tiên lấy trước để toà án áp dụng, mà không giao cho toà án xem xét tuỳ theo trường hợp. Hơn nữa, việc thừa nhận quyền ưu tiên lấy trước phải được thực hiện trên cơ sở xem xét tính hợp lý. Bên bán vật liệu xây dựng có quyền huỷ bỏ hợp đồng để lấy lại vật liệu, nếu còn nguyên vẹn bằng hiện vật, hoặc nhận lại tiền hay vật liệu thay thế; nhưng một khi vật liệu đã được chuyển hoá và trở thành tài sản khác thì không thể thừa nhận quyền ưu tiên lấy trước trên giá trị của tài sản mới; nếu thừa nhận quyền ưu tiên cho bên bán vật liệu trong trường hợp này, thì phải thừa nhận cả quyền ưu tiên cho bên bán nguyên liệu làm gạch và cứ như thế sẽ có một loạt chủ nợ ưu tiên xuất hiện theo dây chuyền vô tận và cuối cùng, quyền ưu tiên được thừa nhận cho chủ nợ có bảo đảm trở nên vô nghĩa. - Sử dụng tài sản thế chấp Thông thường tài sản thế chấp để lại cho bên thế chấp sử dụng. Sẽ không có vấn đề gì nếu bên thế chấp tự mình sử dụng tài sản một cách bình thường. Tuy nhiên, nếu bên thế chấp đem tài sản cho thuê thì cần phân biệt tuỳ theo thời gian cho thuê dài hay ngắn so với kỳ hạn trả nợ. Trong trường hợp thời gian cho thuê quá dài thì có khả năng tài sản bị xử lý trong tình trạng đang cho thuê: người nhận chuyển nhượng phải tôn trọng hợp đồng thuê11. Điều này cũng có nghĩa là tài sản được xử lý không thể được sử dụng theo ý riêng của chủ sở hữu. Vì vậy, cần phải 11 Theo Điều 91 Luật Thi hành án dân sự, trường hợp tài sản kê biên đang cho thuê thì người thuê tiếp tục thuê theo hợp đồng đã giao kết. Số 24 (424) - T12/202028 NGHIÊN CỨU LẬP PHÁP THỰC TIỄN PHÁP LUẬT xác định giới hạn rõ ràng, đặc biệt liên quan đến việc cho thuê, cần xác định thời hạn cho thuê tối đa để tài sản không bị giảm giá trị chuyển nhượng do bị ràng buộc vào một hợp đồng thuê quá dài. - Trường hợp chuyển nhượng tài sản thế chấp BLDS năm 2015 quy định, bên thế chấp không được quyền chuyển nhượng tài sản thế chấp trừ hai trường hợp: 1) Tài sản thế chấp là hàng hoá luân chuyển; 2) Có sự đồng ý của bên nhận thế chấp. Trong trường hợp thứ hai, cần quy định rõ như sau: - Nếu bên nhận thế chấp đồng ý cho chuyển nhượng và muốn rằng tài sản tiếp tục được dùng để bảo đảm nghĩa vụ sau khi chuyển nhượng thì phải làm rõ có điều kiện bảo đảm nghĩa vụ bằng cách thương lượng cụ thể với bên nhận chuyển nhượng; - Nếu bên nhận chuyển nhượng đồng ý cho chuyển nhượng tài sản bảo đảm mà không nói gì về số phận của biện pháp bảo đảm thì việc chuyển nhượng đương nhiên có tác dụng chấm dứt biện pháp bảo đảm. - Xung đột giữa cầm giữ và quyền truy đòi Tình huống đặt ra như sau: A nhận tài sản do B gửi giữ. Tài sản này đã được thế chấp cho C để vay một số tiền. Do C không trả được nợ, B yêu cầu A giao tài sản để B xử lý theo thoả thuận giữa B và C với tư cách là chủ thể quyền truy đòi. Vấn đề là ở thời điểm này, A đã có quyền cầm giữ đối với tài sản để từ chối giao tài sản cho C? Theo quy định của khoản 1 Điều 347 BLDS năm 2015, cầm giữ tài sản phát sinh từ thời điểm đến hạn thực hiện nghĩa vụ mà bên có nghĩa vụ không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ. Trong ví dụ trên, thời hạn gửi giữ chưa hết, nghĩa vụ trả phí gửi giữ chưa đến hạn thực hiện; bởi vậy, A chưa có quyền cầm giữ. Tuy nhiên, theo quy định của khoản 2 Điều 347, cầm giữ tài sản phát sinh hiệu lực đối kháng với người thứ ba kể từ thời điểm bên cầm giữ chiếm giữ tài sản. Áp dụng quy định này, thì A lại có quyền từ chối giao tài sản cho C do đang nắm giữ tài sản và do đó có quyền cầm giữ tài sản trong quan hệ với C. - Xung đột giữa quyền cầm giữ và quyền kê biên trong khuôn khổ thi hành án hoặc phá sản doanh nghiệp BLDS năm 2015 không giải quyết vấn đề số phận của quyền cầm giữ trong trường trường tài sản bị cầm giữ là đối tượng kê biên trong khuôn khổ thi hành án hoặc phá sản doanh nghiệp. Trong luật của Pháp1, nếu tài sản được đem bán trong khuôn khổ thủ tục phá sản hoặc thủ tục thi hành án, thì quyền cầm giữ của chủ nợ đối với tài sản bằng hiện vật sẽ tự động được chuyển sang quyền được nhận tiền thanh toán từ giá bán tài sản. Nói cách khác, một khi tài sản được xử lý theo thủ tục tư pháp và được đem bán, thì số tiền bán phải được ưu tiên trích để chi trả cho bên cầm giữ; số còn lại mới được dùng để trả cho các chủ nợ khác. Quyền đối với giá trị tài sản cầm giữ được thừa nhận cho bên cầm giữ là quyền giữ vị trí ưu tiên áp đảo tất cả các chủ nợ, kể cả chủ nợ có bảo đảm của chủ sở hữu tài sản. Chúng ta có thể vận dụng giải pháp này vào thực tiễn Việt Nam. - Trường hợp bảo lãnh đối vật Khoản 3 Điều 336 BLDS năm 2015 quy định các bên có thể thoả thuận sử dụng biện pháp bảo đảm bằng tài sản để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh. Chẳng hạn, bên bảo lãnh cầm cố hoặc thế chấp tài sản thuộc sở hữu của mình để bảo đảm nghĩa vụ bảo lãnh. Khoa học luật gọi đây là bảo lãnh đối vật. Vấn đề là trong trường hợp này phạm vi bảo lãnh được xác định như thế nào? Vấn đề đặc biệt có ý nghĩa một khi giá trị tài sản cầm cố, thế chấp nhỏ hơn giá trị của nghĩa vụ được bảo lãnh. Do bảo lãnh là việc bảo đảm thực hiện nghĩa vụ của người khác, việc xác định phạm vi bảo lãnh, trong trường hợp quy định của luật và nội dung thoả thuận không rõ, nên được thực hiện theo hướng có lợi cho bên bảo lãnh. Trong trường hợp bảo lãnh đối vật, nếu bên bảo lãnh không chủ động chỉ rõ phạm vi bảo lãnh nhưng có cầm cố, thế chấp tài sản để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh, thì nên thừa nhận rằng giá trị tài sản cầm cố, thế chấp cũng đồng thời là giới hạn phạm vi bảo lãnh: nếu đã xử lý tài sản cầm cố, thế chấp mà nợ được bảo lãnh vẫn chưa được trả đủ thì bên bảo lãnh vẫn chấm dứt nghĩa vụ bảo lãnh của mìnhn 12 Xem Ph. Simler và Ph. Delebecque, Droit civil 0 Les suretés. La publicité foncière, đã dẫn, tr. 603.
File đính kèm:
- gop_y_xay_dung_nghi_dinh_quy_dinh_chi_tiet_ve_bien_phap_bao.pdf