Giáo trình Hướng dẫn tại điểm du lịch (Phần lý thuyết)
I/ Một vài hiểu biết về Tôn Giáo:
Tôn giáo và tín ngƣỡng thuộc về phạm trù đời sống tinh thần của con
ngƣời. Tuy nhiên hoạt động tôn giáo và tín ngƣỡng đƣợc gắn liền với những
yếu tố có tính chất để thờ phụng nghi lễ. Vì vậy mọi điểm du lịch có tính tôn
giáo thƣờng bao gồm cả văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần. Vật thờ cúng
tôn giáo, tín ngƣỡng vừa là biểu hiện tâm linh vừa là giá trị thẩm mỹ. Quy
mô và đặc tính kiến trúc của điểm tôn giáo tín ngƣỡng gắn liền với đời sống
văn hóa, dân cƣ và đời sống kinh tế xã hội. Do đó hoạt động tôn giáo, tín
ngƣỡng là một hiện tƣợng xã hội. Khi mà đời sống văn hóa và vật chất của
cộng đồng dân cƣ đƣợc cải thiện thì hoạt động tôn giáo và tín ngƣỡng cũng
bị chi phối.
Tôn giáo là một vấn đề đặc thù. Nó có sự khác biệt đƣợc thể hiện tùy
từng tộc ngƣời, từng quốc gia, từng khu vực.
Khái niệm “Tôn giáo” bắt nguồn từ phƣơng Tây.
Ở các nƣớc phƣơng Đông có từ “ Đạo”, “Đạo” là tất cả những lời dạy
của các vị Thánh hiền. Khái niệm tôn giáo du nhập vào Nhật Bản, Trung
Quốc ở thế kỉ XVIII, sau đó vào Việt Nam.
Hiện nay Tôn giáo cần đƣợc hiểu là một sản phẩm của xã hội, nó phản
ánh mối quan hệ giữa cái trần tục và cái siêu nhiên tác động đến một cộng
đồng hay một nhóm xã hội có tổ chức.
II. Các nhân tố cấu thành Tôn giáo:
- Niềm tin: đức tin, tín ngƣỡng.
- Nội dung: giáo lý, tín điều.
- Hành vi: Nghi thức, tổ chức, hiến tế.
- Đối tƣợng của tôn giáo là thế giới vô hình.
- Phƣơng pháp của tôn giáo là trực giác.
Trong đó niềm tin là bộ phận quan trọng.
Trong tôn giáo có biểu hiện “càng lạ kì càng hấp dẫn”. Thí dụ: Đạo
Dừa
Sự đa dạng của xã hội làm cho việc biểu hiện tôn giáo cũng khác nhau
giữa các tầng lớp.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Tóm tắt nội dung tài liệu: Giáo trình Hướng dẫn tại điểm du lịch (Phần lý thuyết)
bằng một ngƣời có 11 đầu và ngàn cánh tay hoặc trong dạng có bốn tay, ngồi toà sen. Trƣờng Cao đẳng nghề Du lịch Vũng Tàu 71 /78 4. QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT (AVALOKITESHVARA) Là vị Bồ tát quan trọng nhất trong Phật giáo Đại Thừa. Tên của ngài có nghĩa là “Bồ tát có cái nhìn từ bi”. Hay “Bồ tát từ trên cao nhìn xuống thế gian”. Quán Thế Âm Bồ Tát đƣợc xem là từ Phật A Di Đà mà ra, dù chỗ ở của ngài trên miền tịnh độ, nhƣng ngài vẫn ở lại với thế gian để cứu độ chúng sinh, ngài thƣờng đƣợc thể hiện với nhiều đầu, nhiều tay. Theo một câu truyện thần thoại, khi từ trên cao quán chiếu cảnh khổ của thế gian, đầu ngài đau xót vỡ ra từng mảnh. Phật A Di Đà đã nhặt các mảnh xếp lại thành 9 cái đầu. Sau đó vì muốn cứu giúp cho tất cả chúng sinh nên Quán Thế Âm Bồ Tát đã mọc ra 1.000 cánh tay, trong mỗi lòng bàn tay có một con mắt. “Từ các con mắt của ngài nảy sinh mặt trời, mặt trăng. Từ nơi trán của ngài nảy sinh thần Mahesvasra. Từ vai ngài nảy sinh Brahma cùng các thần khác. Từ tim ngài nảy sinh Narayana. Từ bắp đùi nảy sinh Sarasvati. Từ miệng ngài thổ ra gió. Từ bàn chân ngài sinh ra đất và từ bụng ngài sinh ra thần Varuna”. Quán Thế Âm Bồ Tát giúp đỡ tất cả những ai cầu xin ngài. Ngài đi vào địa ngục đem thức uống mát mẻ đến cho những ai đang bị hành hạ trong luồng hơi thiêu đốt và giảng Phật pháp cho các chúng sinh hóa thân làm con trùng, con bọ. Ngài cũng bảo vệ dân chúng khỏi bị thiên tai và ban phƣớc cho trẻ con. Ngoài ra, Bồ Tát còn hoán cải cho các nữ yêu ở Srilanka và đảm đƣơng nhiệm vụ truyền bá Phật giáo cho ngƣời Tây Tạng. Tại Trung Hoa, Quán Thế Âm Bồ Tát trở thành Phật Bà Quan Âm. Ở Nhật Bản ngài có khi là một nam thần, có khi là một nữ thần. Hình tƣợng Quán Thế Âm Bồ Tát rất gần gũi với ngƣời dân Việt Nam, Quan Thế Âm bồ tát. ảnh Đoàn Văn Tỵ Trƣờng Cao đẳng nghề Du lịch Vũng Tàu 72 /78 trong mỗi ngôi chùa từ Bắc vào Nam đều thờ tƣợng Quán Thế Âm Bồ Tát. Theo Kinh Bi Hoa thì đức Bồ Tát Quán Thế Âm là Thái Tử Bất Tuẫn (có sách viết là Bất Huyễn) con cả của Chuyển Luân Thánh Vƣơng tên là Vô Tránh Niệm. Thái tử Bất Tuẫn theo cha xuất gia tu hành, tầm sƣ học đạo, rồi đứng trƣớc đức Bảo Tạng Nhƣ Lai phát ra lời trọng nguyện đại bi thề cứu vớt tất cả chúng sinh khổ nạn ở khắp mƣời phƣơng, khiến cho đƣợc giải thoát yên vui. Vì lẽ đó Đức Bảo Tạng bèn thụ ký cho Thái tử và đặt tên cho ngài là Quán Thế Âm, trụ xứ của ngài ở Bạch Hoa Sơn, một hòn đảo ở phía Nam Ấn Độ. Nhƣ vậy đức Bồ Tát Quán Thế Âm vốn là một ngƣời nam ở Ấn Độ và Nhật Bản còn ở Việt Nam lại là nữ. Sự biến đổi về giới này có liên quan đến sự tích và quan niệm về tâm linh của ngƣời Việt vốn có nền nông nghiệp. Với đức hạnh vô ngã vị tha của đức Bồ Tát Quán Thế Âm và 32 phép mầu nhiệm huyền vi, ngài có thể ở khắp mọi nơi, mọi lúc tùy theo lòng mong cầu của chúng sinh mà ngài hiện thân điển hóa cứu độ chúng sinh từ u minh đến giác ngộ. Phép thần thông biến hóa của đức Bồ Tát Quán Thế Âm có lúc là ngƣời nam, có lúc là ngƣời nữ, hay tiên ông, hay ngƣời dân bình thƣờng, thậm chí là con cá Các ngƣ dân từ cửa Càn Nghệ An, đến miền Trung, và tận cùng là biển Cà Mau, rất mực tôn thờ Cá Ông (cá Voi), là hiện thân của đức Bồ Tát Quán Thế Âm Nam Hải giúp cƣ dân vạn chài đi biển đƣợc bình an vô sự. Hình tƣợng ngƣời phụ nữ, ngƣời mẹ luôn luôn đƣợc đề cao không chỉ trong cuộc sống thƣờng ngày mà ngay cả trong Tôn giáo với cái tên thật dân giã: Phật Bà Quan Âm. Ở Việt Nam hầu nhƣ tất cả các ngôi chùa, gia đình phật tử nào cũng có tƣợng bồ Tát Quan Thế Âm để thờ. Tƣợng Phật Bà Quan Thế Âm đƣợc an vị trên Tam Bảo ở hàng tƣợng A Di Đà Tam tôn (ở giữa là A Di Đà, bên trái là Quan Thế Âm, bên phải là Đại Thế Trí), hoặc an vị riêng một hàng với tên gọi: Quan Âm Chuẩn Đề, Quan Âm Thiên Thủ Thiên Nhãn. Cũng có khi tƣợng Quan Thế Âm Bồ Tát đặt hai bên tả hữu tam bảo, hoặc ngoài viên tự (tùy theo từng chùa). Do vậy, trong ngôi chùa Việt ở miền Bắc, theo phái Đại Thừa, ngoài thờ chƣ phật, bồ tát, hộ pháp, kim cƣơng, tƣợng thánh, tƣợng hậu, tƣợng mẫu, tƣợng các vị anh hùng văn hóa, anh hùng dân tộc. Ở Miền Nam, chủ yếu theo phái Tiểu Thừa nên chỉ thờ hàng tƣợng Hoa Nghiêm tam thánh (Thích Ca Mầu Ni, hai vị bồ tát Văn Thù, Phổ Hiền) là chính. Còn các hàng tƣợng thánh, thần, kim cƣơng thì ít, chỉ phổ cập là tƣợng Quan Thế Âm Bồ Tát trong tƣ thế cứu độ chúng sinh đứng trên đài sen, một tay cầm cành dƣơng liễu, tay kia đỡ bình hồ lô đƣợc đặt trong vƣờn chùa. Bình chức nƣớc Cam lồ là thể hiện ai có nỗi khổ đều cấu mong ngài tƣới giọt nƣớc từ bi hỷ xả - tam muội cho mát mẻ để vơi đi nỗi khổ trong tâm tƣ. Ý nghĩa Bình Cam Lồ thanh tịnh là nói Trƣờng Cao đẳng nghề Du lịch Vũng Tàu 73 /78 tâm trí ngài vắng lặng, trong sáng suốt muôn nơi. Còn cành dƣơng liễu thì trong 12 câu nguyện có câu: “nam mô tánh tịnh bình thùy dƣơng liễu Quán Thế Âm Nhƣ Lai cam lộ sái tâm nguyện Quan Thế Âm Bồ Tát” – Ý nói cành dƣơng liễu vảy nƣớc cam lồ cứu vớt chúng sinh khỏi khổ. Bình là tƣợng trƣng cho thanh tịnh, nƣớc cam lồ tƣợng trƣng cho lòng từ bi. Trong nghệ thuật tạo hình tƣợng tròn thì tƣợng Phật Bà Quán Thế Âm Bồ Tát và Quan Âm Thị Kính là mẫu hình tiêu biểu rõ tâm Phật và tính chân dung cao, mang nét nhân hậu, bao dung, độ lƣợng và sự đoan trang hiền thục ở ngƣời phụ nữ Việt Nam. Thơ văn Việt Nam lấy đề tài Phật giáo rất nhiều, điển hình là truyện thơ Bà Chúa Ba, Quan Âm Thị Kính cốt truyện, lời thơ hoàn toàn mang mầu sắc Phật giáo nhắm xây dựng giáo hóa con ngƣời có đức tính cao thƣợng, theo gƣơng biết tránh dữ, làm lành, nhƣ trong gia đình hiếu thảo với cha mẹ, ngoài xã hội nhân từ với mọi ngƣời. 5. DIỆU DỤNG KHI BỒ TÁT QUÁN-THẾ-ÂM XUẤT HIỆN Trí óc con ngƣời vốn mang nhiều nghi hoặc, dù đã tin tƣởng Phật Pháp là cao siêu mầu nhiệm, chịu thọ nhận, tụng niệm tu hành. Nhƣng tiếc thay, nghiệp chƣớng nghi hoặc đã làm ngăn trở bƣớc đƣờng tiến tu không ít. Ngƣời ta cứ nghi: "Bồ-tát sao không hiện ra trƣớc mắt cho thấy, cho nghe; bao nhiêu hiện thân trong kinh Phật, nào Bồ-tát, Phạm-vƣơng, Đế-thích, Thiên, Long, Đồng-nam, Đồng-nữ v.v... Nhƣng khi có nạn, mình có niệm chí thành lắm chớ, mà nào có thấy Bồ-tát!?", Sự kiện này, có nhiều ngƣời vì lòng tin sâu đậm và do nhận xét tinh tế quyết chắc có sự tế độ của Bồ-tát chỉ vì mình mắt phàm, tai tục nên không thấy Ngài, nếu không có thì không thể nào mình thoát nạn một cách ly kỳ vậy đƣợc. Một số khác, lại ngờ rằng không biết có phải Bồ-tát đến độ cho mình hay không ? hay là mình có số hên ? Hay là do phƣớc ông bà để lại? Vậy, nên hiểu rằng, Bồ-tát thị hiện giao cảm trong chúng ta, trong tất cả mọi ngƣời, mọi loài. Một đám giặc cƣớp sắp ồ ạt tấn công qua chiếc thuyền nhỏ bé, hay trên thuyền sắp có biến cố thê thảm xảy ra...Tại sao bọn cƣớp lại đổi ác ý để trở thành thiện niệm ? Để rồi bọn chúng trở nên hiền từ và rút lui êm đẹp ? Hơn nữa còn tiếp tế giúp đỡ ,đó là nhờ trên chiếc thuyền có nhiều ngƣời chí thành niệm danh hiệu đức Quán-thế-Âm. Sự đổi thay tâm ý của kẻ ác, lại không là sự thị hiện nhiệm mầu để cứu độ hay sao ? Không lẽ Ngài hiện ra hung thần để đánh chìm ác tặc, rồi mới cho là linh? Trƣờng Cao đẳng nghề Du lịch Vũng Tàu 74 /78 Bà già ở nhà có một mình lấy quần áo ra khâu may, mới vài đƣờng chỉ chẳng may chỉ sút , đôi mắt lem nhem sợi chỉ không làm sao xâu qua lỗ đƣợc, bà thở dài buồn thảm : "Mẹ hiền Quán-âm ơi con phải làm sao !?". Bà tủi thân gần muốn rơi lệ lòng hƣớng về Phật lâm râm cầu nguyện. Đứa bé chơi từ ngoài xa, nó bỗng thấy thích vào nhà bà già cô quả ấy, và đứa bé đã xâu chỉ cho bà. Nhƣ vậy Bồ-tát thị hiện trong tâm đứa bé ấy chƣa ? Ngƣời lái xe đi trên quãng đƣờng thôn dã, không may xe bị hƣ! Với độc lực và hơn nữa là bạn chƣa một lần biết sửa xe, bạn chỉ còn biết cầu nguyện...Từ bên ngoài quốc lộ có đôi bạn lại nổi lên ý niệm ham thích đƣợc đi trên con đƣờng hẻo lánh đó, họ gặp bạn và sẵn sàng ra tay nghĩa hiệp giải nguy cho bạn. Quán-âm thị hiện là chỗ đó. Đó là trƣởng giả thân, cũng là đồng nam, đồng nữ vậy. Bà Ấm ngƣời làng Sơn Tịnh, mỗi năm một lần bà lên núi Trà Bồng, hang Thạch Động để lễ Phật, cái hang động ngày xƣa mà thầy Chơn Dung tu hành đã phát kỳ tích ở đấy. Hú hồn, hôm ấy bà lại gặp phải con cọp, chao ôi con cọp vằn vện to lớn quá, cọp từ xa gầm thét và phóng tới, bà chỉ kịp la lên QUÁN ÂM BỒ TÁT rồi bà bất tỉnh ! Thực ra bà "THÉT" chứ không phải niệm, nhƣng đó là cái thét cấp bách đầy khẩn thiết và sự chí thành đƣợc dồn hết vào cái THÉT đó. Khi tỉnh dậy, ý niệm đầu tiên của bà là tƣởng mình đã chết, một lát sau khi tri giác về đủ, bà mới cảm nghe hôi hám và đau rát trên mặt. Thì ra con cọp đã liếm mặt bà rồi bỏ đi. Tại sao cọp bỏ đi, khi miếng mồi ngon trƣớc miệng nó ? Chính đó là diệu dụng cảm hóa, tế độ của Bồ-tát Quán-thế-Âm trực tiếp ngay trong tâm ý của con cọp. Bà Ấm là ngƣời quen (tu) tập chiếu mặt kiếng về ánh thái dƣơng (thƣờng niệm Quán-thế-Âm) trong giờ phút cấp bách bà chiếu đúng ánh sáng QUÁN-THẾ-ÂM. Ba lễ vía Quán Thế Âm hàng năm Hằng năm Phật tử khắp nơi trên thế giới thƣờng làm lễ vía Bồ-tát Quán-Thế- Âm thật trang nghiêm vào các ngày: 19/2, 19/6 và 19/9 đều theo âm lịch. Nhƣng đa phần chỉ biết suông là lễ vía Quán-thế-Âm thế thôi ! Thực ra trong Thiền môn nhật tụng cổ xƣa đã ghi rõ : - Ngày 19/2 là vía QUÁN THẾ ÂM ĐẢN SANH. - Ngày 19/6 là vía QUÁN THẾ ÂM THÀNH ĐẠO. - Ngày 19/9 là vía QUÁN THẾ ÂM XUẤT GIA. Trƣờng Cao đẳng nghề Du lịch Vũng Tàu 75 /78 6. QUAN ÂM THỊ KÍNH Một sự tích đƣợc phổ biến tại Việt Nam là Quan Âm Thị Kính, kể rằng ngài đã đầu thai và tu hành 9 kiếp. Trong kiếp thứ 10, ngài đƣợc đầu thai làm một con gái trong một gia đình họ Mãng ở nƣớc Cao Ly (ở bán đảo Triều Tiên ngày nay), và đƣợc đặt tên là Thị Kính. Thị Kính đƣợc gả cho Thiện Sĩ của gia đình họ Sùng. Khi ở nhà chồng, Thị Kính giữ phận làm dâu, tôn kính phụng dƣỡng bố mẹ chồng. Một hôm, khi Thiện Sĩ đang ngủ sau khi đọc sách, Thị Kính thấy ở cằm của chồng mình có mọc sợi râu. Thị Kính đang may vá nên cầm một con dao nhíp trong tay và sẵn tiện cắt đứt sợi râu. Thiện Sĩ giật mình thức giấc, thấy vợ đang cầm dao gần cổ, tƣởng rằng Thị Kính đang định giết mình nên la lên. Sau khi Thị Kính kể lể đầu đuôi, cha mẹ chồng vẫn ngờ rằng Thị Kính có âm mƣu giết chồng, bắt Thiện Sĩ phải bỏ vợ. Thị Kính phải trở về nhà cha mẹ mình, quyết định xuất gia đi tu. Bà cải trang thành một ngƣời nam giới, trốn nhà đến chùa xin đi tu, lấy pháp danh là Kính Tâm. Tuy là gái giả trai, Kính Tâm có tƣớng mạo đẹp đẽ, cho nên có nhiều tín nữ ngƣỡng mộ. Thị Mầu, con của một trƣởng giả giàu có, trêu ghẹo Kính Tâm, nhƣng không đƣợc đáp lại. Thị Mầu lại có thai với ngƣời đầy tớ. Khi bị tra hỏi, Thị Mầu khai rằng Kính Tâm là cha của thai nhi. Kính Tâm tuy kêu oan nhƣng Quan Âm Thị Kính, chùa Niết Bàn Tịnh xá. ảnh Đoàn Văn Tỵ Trƣờng Cao đẳng nghề Du lịch Vũng Tàu 76 /78 không dám tiết lộ ra bí mật của mình. Sau đó, Kính Tâm phải tu ở ngoài cổng chùa để chùa không bị tiếng tăm. Thị Mầu sinh ra đƣợc một đứa con trai, đem đứa nhỏ đến chùa gửi cho Kính Tâm. Kính Tâm vì tính thƣơng ngƣời, nhận đứa trẻ vào nuôi dƣỡng. Khi đứa trẻ lên 3 tuổi thì Kính Tâm bị bệnh nặng. Biết mình sắp chết, Kính Tâm dặn dò đứa trẻ đƣa thƣ cho sƣ cụ của chùa và cho ông bà họ Mãng. Sau khi đọc rõ sự tình, sƣ cụ kêu ngƣời khám xét thi thể Kính Tâm, mới biết rằng Kính Tâm là gái giả trai. Thị Mầu xấu hổ, đành phải tự tử. Thiện Sĩ ăn năn, bèn đi tu, sau này biến thành một con chim. Quan Âm Bồ Tát (Thị Kính sau khi chết) cũng cứu độ đứa con nuôi, con ruột của Thị Mầu, đem về Nam Hải, để làm ngƣời hầu. Do đó, ngƣời ta họa hình Quan Thế Âm Bồ Tát đội mũ ni xanh, mặc áo tràng trắng, ngự trên tòa sen, bên tay mặt có con chim mỏ ngậm xâu chuỗi bồ đề, bên dƣới có đứa trẻ bận khôi giáp chắp tay đứng hầu. 7. QUAN ÂM DIỆU THIỆN Truyền thuyết Quan Âm Diệu Thiện đƣợc truyền miệng trong dân gian Việt Nam qua lối truyện thơ. Bài thơ viết theo thể lục bát nói về một vị công chúa đã xuất gia ở Việt Nam để độ hóa cho vua cha có nhiều tội ác. Sự tích này cũng có một dị bản lƣu hành ở Trung Hoa. Vị công chúa này, nguyên ở nƣớc Hùng Lâm thuộc Ấn Độ, là ngƣời con gái thứ ba của một vị vua. Trƣớc khi sinh công chúa Diệu Thiện thì nhà vua rất mong có hoàng tử nên đã cầu xin rất nhiều nhƣng đứa con chào đời lại là một công chúa. Điều này đã làm cho nhà vua sinh lòng oán hận. Khác hẳn hai ngƣời chị, nàng công chúa này lớn lên chỉ say mê kinh kệ và có lòng quy y Phật. Vì cự tuyệt việc lấy chồng nên cô bị giam hãm phía sau hoàng cung. Không thuyết phục đƣợc con mình hoàn tục, vua giả vờ cho phép con tu ở chùa Bạch Tƣớc rồi ngầm ra lệnh cho các sƣ sãi phải tìm cách thuyết phục cho công chúa hoàn tục. Nếu không sẽ giết hết các sƣ sãi trong chùa. Nhƣng mọi cách đều không lung lạc đƣợc ý quyết của công chúa. Giận con, vua ra lệnh đốt chùa để giết cô công chúa nhƣng trời bỗng có mƣa dập tắt lửa. Chƣa hết giận, vua bèn hạ lệnh xử chém, thì trời bỗng giông tố, tạo ra sét đánh văng búa của đao phủ. Vua tức giận ra lệnh xử giảo công chúa nhƣng ngay lúc đó xuất hiện một con cọp trắng xông ra cõng công chúa mang đến chùa Hƣơng. Diệu Thiện tu hành ở đó và cảm hóa đƣợc muông thú. Trƣờng Cao đẳng nghề Du lịch Vũng Tàu 77 /78 Trong khi đó, vua trong triều đột nhiên bị chứng bệnh hủi không chữa đƣợc, dần dần hai bàn tay bị rơi rụng và mắt trở nên mù. Công chúa tu đã đến kì đắc đạo trở về thăm phụ thân và đã hy sinh hai mắt cùng hai tay để cho cha. Sau đó công chúa nhập Niết Bàn và cứu độ cha mẹ và hai chị cùng thành Phật. Trong truyện đã đề cao hai đặc tính của bồ tát, đó là nhân và hiếu. Với trí huệ và giới hạnh thì hiếu có thể độ giúp cứu thoát đƣợc cha mẹ mình, cùng nhƣ nhân có thể độ giúp nhiều ngƣời thoát vòng mê lầm trở về với trí huệ Trƣờng Cao đẳng nghề Du lịch Vũng Tàu 78 /78 TÀI LIỆU THAM KHẢO (Sử dụng viết nội dung bài giảng) TT Tên tài liệu tham khảo Tác giả Nhà xuất bản 01 Cẩm nang hƣớng dẫn du lịch Nguyễn Bích San - chủ biên Văn hóa thông tin - Hà Nội - 2000 02 Nghiệp vụ HDDL Tổng cục Du lịch Hà nội - 1997 03 Nghệ thuật HDDL Nguyễn Cƣờng Hiền NXB văn hóa - 1994 04 V/đề về Tôn Giáo và Chính sách Tôn giáo của Đảng CSVN Ban tƣ tƣởng - văn hóa TW Chính trị quốc gia - 2002 05 Lƣợc sử Phật giáo Việt Nam Thích Minh Tuệ Giáo Hội phật giáo Việt Nam - 1993 06 Thế thứ các triều vua Việt Nam Nguyễn Khắc Thuần Giáo dục - 1996 07 Chín đời chúa mƣời ba đời vua Nguyễn Nguyễn Đắc Xuân Thuận Hóa - Huế 1996 08 Danh tƣớng Việt Nam tập 1 & 2 Nguyễn Khắc Thuần Giáo dục - 1997 09 Hỏi và đáp về Văn hóa Việt Nam Nhiều tác giả Văn hóa dân tộc - 2000 10 Hƣớng dẫn du lịch Trƣờng DL Vũng Tàu Lƣu hành nội bộ 11 Các loại sách, tạp chí, báo, internet khác.
File đính kèm:
- giao_trinh_huong_dan_tai_diem_du_lich_phan_ly_thuyet.pdf