Giao kết hợp đồng theo quy định của Công ước viên 1980 trong tương quan so sánh với pháp luật Việt Nam

Bài viết nghiên cứu các quy định của Công ước Viên 1980 về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế

về đề nghị giao kết hợp đồng, chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng, hiệu lực của hợp đồng để thấy

điểm tương đồng và khác biệt giữa quy định của pháp luật Việt Nam và công ước Viên, từ đó đề xuất

một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật.

Giao kết hợp đồng theo quy định của Công ước viên 1980 trong tương quan so sánh với pháp luật Việt Nam trang 1

Trang 1

Giao kết hợp đồng theo quy định của Công ước viên 1980 trong tương quan so sánh với pháp luật Việt Nam trang 2

Trang 2

Giao kết hợp đồng theo quy định của Công ước viên 1980 trong tương quan so sánh với pháp luật Việt Nam trang 3

Trang 3

Giao kết hợp đồng theo quy định của Công ước viên 1980 trong tương quan so sánh với pháp luật Việt Nam trang 4

Trang 4

Giao kết hợp đồng theo quy định của Công ước viên 1980 trong tương quan so sánh với pháp luật Việt Nam trang 5

Trang 5

pdf 5 trang xuanhieu 5040
Bạn đang xem tài liệu "Giao kết hợp đồng theo quy định của Công ước viên 1980 trong tương quan so sánh với pháp luật Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Giao kết hợp đồng theo quy định của Công ước viên 1980 trong tương quan so sánh với pháp luật Việt Nam

Giao kết hợp đồng theo quy định của Công ước viên 1980 trong tương quan so sánh với pháp luật Việt Nam
bởi lẽ nếu đề nghị giao kết 
hợp đồng chấm dứt trong trường hợp này thì 
sẽ không thể có hợp đồng được giao kết do đề 
nghị giao kết hợp đồng cùng với chấp nhận 
đề nghị giao kết hợp đồng mới cấu thành 
một hợp đồng hoàn chỉnh. Quy định nêu trên 
không được quy định trong Công ước Viên 
1980. Tại Điều 395 BLDS năm 2015 còn quy 
4  Chấp nhận chào hàng có hiệu lực từ khi người chào 
hàng nhận được chấp nhận. Chấp thuận chào hàng 
không phát sinh hiệu lực nếu sự chấp nhận ấy không 
được gửi tới người chào hàng trong thời hạn mà 
người này đã quy định trong chào hàng, hoặc nếu 
thời hạn đó không được quy định như vậy, thì trong 
một thời hạn hợp lý, xét theo các tình tiết của sự giao 
dịch, trong đó có xét đến tốc độ của các phương tiện 
liên lạc do người chào hàng sử dụng. Một chào hàng 
bằng miệng phải được chấp nhận ngay trừ phi các 
tình tiết bắt buộc ngược lại.
5  Xem: Điều 388 BLDS năm 2015.
6  Xem: Điều 16 Công ước Viên 1980.
NGUYỄN THỊ LÊ HUYỀN - VŨ THỊ HƯƠNG
117Số Chuyên đề 01 - 2021 Khoa học Kiểm sát
định: “Trường hợp bên đề nghị chết, mất năng 
lực hành vi dân sự hoặc có khó khăn trong nhận 
thức, làm chủ hành vi sau khi bên được đề nghị trả 
lời chấp nhận giao kết hợp đồng thì đề nghị giao kết 
hợp đồng vẫn có giá trị, trừ trường hợp nội dung 
giao kết gắn liền với nhân thân bên đề nghị”. Quy 
định này của BLDS năm 2015 không được ghi 
nhận trong Công ước Viên 1980. Thêm vào 
đó, điều này có vẻ vô lý, không cần thiết và 
mâu thuẫn với Điều 391 BLDS năm 2015, bởi 
Điều 391 quy định: Đề nghị giao kết hợp đồng 
chấm dứt khi bên được đề nghị chấp nhận 
giao kết hợp đồng. 
Tiếp thu kinh nghiệm từ pháp luật quốc 
tế, đặc biệt là Bộ nguyên tắc chung về Luật 
Hợp đồng Châu Âu (PCEL), Điều 387 BLDS 
năm 2015 quy định về thông tin trong giao kết 
hợp đồng như sau:
“1. Trường hợp một bên có thông tin ảnh 
hưởng đến việc chấp nhận giao kết hợp đồng của 
bên kia thì phải thông báo cho bên kia biết.
2. Trường hợp một bên nhận được thông tin bí 
mật của bên kia trong quá trình giao kết hợp đồng 
thì có trách nhiệm bảo mật thông tin và không 
được sử dụng thông tin đó cho mục đích riêng của 
mình hoặc cho mục đích trái pháp luật khác.
3. Bên vi phạm quy định tại khoản 1, khoản 2 
Điều này mà gây thiệt hại thì phải bồi thường”.
Quy định này là hoàn toàn thuyết phục, 
phù hợp với pháp luật quốc tế. Theo đó, 
những thông tin ảnh hưởng đến việc chấp 
nhận đề nghị giao kết hợp đồng của bên kia 
thì bắt buộc phải thông báo. Những thông 
tin đối với quá trình sản xuất hàng hóa, về 
khả năng sử dụng hàng hóa, trong sản xuất 
kinh doanh ảnh hưởng đến hậu quả của việc 
giao kết hợp đồng rất quan trọng7.
2. Chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng 
và hiệu lực của hợp đồng theo quy định của 
Công ước Viên 1980 trong tương quan so 
sánh với pháp luật Việt Nam
2.1. Chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng
Chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng 
được quy định tại Điều 19 Công ước Viên 
1980: “1. Một sự phúc đáp có khuynh hướng chấp 
nhận chào hàng nhưng có chứa đựng những điểm 
bổ sung, bớt đi hay các sửa đổi khác thì được coi là 
7  Nguyễn Minh Tuấn (Chủ biên), Bình luận khoa học 
những điểm mới của Bộ luật dân sự năm 2015, Nxb Tư 
pháp, Hà Nội (2016), tr.225.
từ chối chào hàng và cấu thành một hoàn giá.
2. Tuy nhiên một sự phúc đáp có khuynh 
hướng chấp nhận chào hàng nhưng có chứa đựng 
các điều khoản bổ sung hay những điều khoản 
khác mà không làm biến đổi một cách cơ bản nội 
dung của chào hàng thì được coi là chấp nhận chào 
hàng, trừ phi người chào hàng ngay lập tức không 
biểu hiện bằng miệng để phản đối những điểm 
khác biệt đó hoặc gửi thông báo về sự phản đối của 
mình cho người được chào hàng. Nếu người chào 
hàng không làm như vậy, thì nội dung của hợp 
đồng sẽ là nội dung của chào hàng với những sự 
sửa đổi nêu trong chấp nhận chào hàng”.
Theo đó, Công ước Viên có 02 trường hợp 
được coi là chấp nhận đề nghị giao kết hợp 
đồng: Một là, chấp nhận toàn bộ nội dung của 
đề nghị giao kết hợp đồng; hai là, chấp nhận 
một sự phúc đáp có khuynh hướng chấp nhận 
đề nghị giao kết hợp đồng nhưng có chứa 
đựng các điều khoản bổ sung hay những điều 
khoản khác mà không làm biến đổi một cách 
cơ bản nội dung của đề nghị giao kết hợp 
đồng.
Do đó, nếu chấp nhận đề nghị giao kết 
hợp đồng có sửa đổi, bổ sung điều khoản cơ 
bản trong nội dung của đề nghị giao kết hợp 
đồng thì mới được coi là một đề nghị giao kết 
hợp đồng mới. Công ước Viên 1980 coi “các 
yếu tố bổ sung hay sửa đổi liên quan đến các điều 
kiện giá cả, thanh toán, đến phẩm chất và số lượng 
hàng hóa, địa điểm và thời hạn giao hàng, đến 
phạm vi trách nhiệm của các bên hay đến sự giải 
quyết tranh chấp được coi là những điều kiện làm 
biến đổi một cách cơ bản nội dung của đề nghị giao 
kết hợp đồng”8.
Theo khoản 1 Điều 393 BLDS năm 2015, 
“Chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng là sự trả lời 
của bên được đề nghị về việc chấp nhận toàn bộ nội 
dung của đề nghị”.
Như vậy, sự trả lời của bên được đề nghị 
đối với đề nghị giao kết hợp đồng của bên 
đề nghị là phải “chấp nhận toàn bộ nội dung 
của đề nghị”. Do đó, khi bên được đề nghị đã 
chấp nhận giao kết hợp đồng nhưng có nêu 
điều kiện hoặc sửa đổi, bổ sung đề nghị thì 
khi đó sẽ cấu thành một đề nghị mới9. Tuy 
nhiên, quy định này của pháp luật Việt Nam 
so với Công ước Viên 1980 thì quy định của 
Công ước Viên mang tính chất mềm dẻo hơn.
8  Xem: Khoản 3 Điều 19 Công ước Viên 1980.
9  Xem: Điều 392 BLDS năm 2015
GIAO KẾT HỢP ĐỒNG THEO QUY ĐỊNH CỦA CÔNG ƯỚC VIÊN 1980... 
118 Khoa học Kiểm sát Số Chuyên đề 01 - 2021
Về mặt nguyên tắc, một chấp nhận đề nghị 
giao kết hợp đồng có giá trị pháp lý khi chấp 
nhận là “vô điều kiện” và bên đề nghị giao 
kết hợp đồng nhận được chấp nhận trong 
thời gian hiệu lực của đề nghị giao kết hợp 
đồng hoặc trong thời gian hợp lý nếu trong 
đề nghị giao kết hợp đồng không quy định 
thời hạn trả lời10. Khoản 2 Điều 394 BLDS 
năm 2015 quy định: Trong trường hợp đã 
hết thời hạn trả lời mà bên đề nghị mới nhận 
được chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng 
vì lý do khách quan mà bên đề nghị biết hoặc 
phải biết về lý do khách quan này thì thông 
báo chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng vẫn 
có hiệu lực (trừ trường hợp bên đề nghị trả 
lời ngay không đồng ý với chấp nhận đó của 
bên được đề nghị giao kết hợp đồng)11. Quy 
định này có xu hướng nghiêng về việc bảo vệ 
lợi ích của bên đề nghị bởi rất nhiều trường 
hợp bên được đề nghị giao kết hợp đồng gửi 
thông báo chấp nhận trong thời gian hiệu lực 
của đề nghị nhưng thông báo lại không đến 
tay người nhận. Bên được đề nghị tin tưởng 
rằng thông báo của mình đã đến tay người 
nhận và hợp đồng đã được ký kết nên đã làm 
các thủ tục cần thiết và đến nhận hàng. Tuy 
nhiên, khi đến nhận hàng bên đề nghị giao 
kết đã bán hết hàng cho đối tác khác, trong 
trường hợp này rõ ràng thiệt hại sẽ thuộc về 
bên được đề nghị giao kết hợp đồng do hành 
vi trung thực và thiện chí của mình12.
Cũng giống như Công ước Viên 1980, 
pháp luật Việt Nam không coi sự im lặng của 
người được đề nghị là chấp nhận đề nghị giao 
kết hợp đồng. Khoản 2 Điều 393 BLDS năm 
2015 quy định: “Sự im lặng của bên được đề nghị 
không được coi là chấp nhận đề nghị giao kết hợp 
đồng, trừ trường hợp có thỏa thuận hoặc theo thói 
quen đã được xác lập giữa các bên”. Như vậy, 
nếu các bên có thoả thuận im lặng hoặc theo 
thói quen đã được xác lập giữa các bên thì im 
lặng vẫn được coi là chấp nhận đề nghị giao 
kết hợp đồng. Nếu bên cạnh sự im lặng mà 
bên im lặng lại thực hiện hành vi như giao 
hàng, trả tiền, thì vẫn có chấp nhận đề nghị 
10  Xem: Điều 21 Công ước Viên 1980; Điều 394 BLDS 
năm 2015.
11  Xem: Khoản 2 Điều 21 Công ước Viên 1980.
12  Nguyễn Văn Luyện, Lê Thị Bích Thọ, Dương Anh 
Sơn, Giáo trình Luật Hợp đồng Thương mại quốc tế, Nxb 
Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh (2011), tr. 66.
giao kết hợp đồng13. Tại khoản 3 Điều 18 
Công ước Viên 1980 cũng có quy định: “Nếu 
do hiệu lực của chào hàng hoặc do thực tiễn đã có 
giữa hai bên trong mối quan hệ tương hỗ hoặc tập 
quán thì người được chào hàng có thể chứng tỏ sự 
chấp thuận của mình bằng cách làm một hành vi 
nào đó như hành vi liên quan đến việc gửi hàng 
hay trả tiền chẳng hạn dù họ không thông báo cho 
người chào hàng thì chấp nhận chào hàng chỉ có 
hiệu lực từ khi những hành vi đó được thực hiện 
với điều kiện là những hành vi đó phải được thực 
hiện trong thời hạn đã quy định tại điểm trên”.
Ngoài ra, Điều 396 BLDS năm 2015 còn 
có nội dung: Trường hợp bên được đề nghị 
đã chấp nhận giao kết hợp đồng nhưng sau 
đó chết, mất năng lực hành vi dân sự hoặc có 
khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi 
thì việc trả lời chấp nhận giao kết hợp đồng 
vẫn có giá trị, trừ trường hợp nội dung giao 
kết gắn liền với nhân thân bên được đề nghị14. 
Quy định này của BLDS năm 2015 hoàn toàn 
không tìm thấy trong pháp luật nhiều quốc 
gia cũng như không tìm thấy trong Công ước 
Viên 1980. 
2.2. Hiệu lực của hợp đồng 
Theo Điều 23 và Điều 24 Công ước Viên 
1980, hợp đồng được coi là đã ký kết kể từ lúc 
sự chấp nhận chào hàng có hiệu lực (Một chào 
hàng, một thông báo chấp nhận chào hàng 
hoặc bất cứ một sự thể hiện ý chí nào cũng 
được coi là “tới nơi” người được chào hàng khi 
được thông tin bằng lời nói với người này, hoặc 
được giao bằng bất cứ phương tiện nào cho 
chính người được chào hàng tại trụ sở thương 
mại của họ, tại trụ sở bưu chính hoặc nếu họ 
không có trụ sở thương mại hay địa chỉ bưu 
chính thì gửi tới nơi thường trú của họ). Tinh 
thần này của Công ước Viên 1980 cho thấy thời 
điểm hợp đồng được giao kết theo quy định 
của Công ước được xác định là thời điểm bên 
chào hàng (đề nghị giao kết hợp đồng) nhận 
13  Đỗ Văn Đại, Bình luận khoa học, Những điểm mới của 
Bộ luật dân sự năm 2015, Nxb Hồng Đức - Hội luật gia 
Việt Nam (2016), tr. 352.
14  Điều 395 BLDS năm 2015 quy định tương tự đối với 
trường hợp bên đề nghị giao kết hợp đồng “Trường 
hợp bên đề nghị chết, mất năng lực hành vi dân sự hoặc 
có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi sau khi bên 
được đề nghị trả lời chấp nhận giao kết hợp đồng thì đề 
nghị giao kết hợp đồng vẫn có giá trị, trừ trường hợp nội 
dung giao kết gắn liền với nhân thân bên đề nghị”.
NGUYỄN THỊ LÊ HUYỀN - VŨ THỊ HƯƠNG
119Số Chuyên đề 01 - 2021 Khoa học Kiểm sát
được chấp nhận chào hàng (chấp nhận đề nghị 
giao kết hợp đồng) vô điều kiện.
Pháp luật Việt Nam quy định thời điểm 
giao kết hợp đồng tại Điều 400 và hiệu lực của 
hợp đồng tại Điều 401 của BLDS năm 201515. 
Có thể thấy, quy định của pháp luật Việt Nam 
về hiệu lực của hợp đồng đã có sự tương thích 
với quy định của Công ước Viên 1980. Cả Công 
ước Viên 1980 và pháp luật Việt Nam đều theo 
“thuyết tiếp thu”, tức là quy định hợp đồng 
được giao kết ở thời điểm bên chào hàng nhận 
được chấp nhận chào hàng vô điều kiện.
3. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật Việt 
Nam
Với việc học hỏi kinh nghiệm của nước 
ngoài cũng như thông qua thực tiễn, pháp 
luật dân sự Việt Nam đã có những ghi nhận 
mới, tiến bộ phù hợp với thông lệ và tương 
thích với pháp luật quốc tế về hợp đồng, 
trong đó có các quy định về đề nghị và chấp 
nhận đề nghị giao kết hợp đồng. Tuy nhiên, 
như đã phân tích ở trên, các quy định này vẫn 
còn một số bất cập cần sửa đổi, bổ sung để 
pháp luật Việt Nam tương thích hoàn toàn 
với pháp luật quốc tế, tạo một hành lang pháp 
lý vững chắc và phù hợp với tiến trình hợp 
tác, giao lưu thương mại trong quá trình hội 
nhập quốc tế. Từ đó, tác giả đưa ra một số 
kiến nghị như sau:
Thứ nhất, một đề nghị giao kết hợp đồng 
phải thể hiện rõ ý định của bên đề nghị giao 
kết. Tuy nhiên, pháp luật Việt Nam lại không 
quy định cách thức để xác định ý định của 
bên đề nghị giao kết hợp đồng. Theo đó, nên 
chăng khi quy định nội dung của đề nghị giao 
15  Xem: Điều 400. Thời điểm giao kết hợp đồng, 
BLDS năm 2015:
“1. Hợp đồng được giao kết vào thời điểm bên đề nghị 
nhận được chấp nhận giao kết.
2. Trường hợp các bên có thỏa thuận im lặng là sự trả 
lời chấp nhận giao kết hợp đồng trong một thời hạn thì 
thời điểm giao kết hợp đồng là thời điểm cuối cùng của 
thời hạn đó.
3. Thời điểm giao kết hợp đồng bằng lời nói là thời điểm 
các bên đã thỏa thuận về nội dung của hợp đồng.
4. Thời điểm giao kết hợp đồng bằng văn bản là thời 
điểm bên sau cùng ký vào văn bản hay bằng hình thức 
chấp nhận khác được thể hiện trên văn bản.
Trường hợp hợp đồng giao kết bằng lời nói và sau đó 
được xác lập bằng văn bản thì thời điểm giao kết hợp 
đồng được xác định theo khoản 3 Điều này.”
kết hợp đồng cần phải có những nội dung chủ 
yếu như: Tên hàng, số lượng, cách thức xác 
định giá giống như trong Công ước Viên 1980.
Thứ hai, khoản 1 Điều 391 BLDS năm 2015 
quy định đề nghị giao kết hợp đồng chấm 
dứt khi “bên được đề nghị chấp nhận đề 
nghị giao kết hợp đồng”. Như đã phân tích, 
nội dung này là không phù hợp bởi nó cùng 
với chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng mới 
cấu thành một hợp đồng hoàn chỉnh. Do đó, 
cần bỏ quy định nêu trên ra khỏi Điều 391 về 
chấm dứt đề nghị giao kết hợp đồng.
Thứ ba, Điều 393 BLDS năm 2015 quy 
định một trường hợp duy nhất được coi là 
chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng “vô điều 
kiện”. Theo đó, chấp nhận không được đưa 
ra nếu có bất cứ sửa đổi, bổ sung nào của đơn 
đề nghị giao kết hợp đồng. Tuy nhiên, trong 
tiến trình giao lưu thương mại và hội nhập 
ngày càng sâu rộng như hiện nay, một sửa 
đổi, bổ sung không đáng kể trong chấp nhận 
đề nghị giao kết hợp đồng lại cấu thành một 
đề nghị giao kết hợp đồng mới sẽ làm cho quá 
trình đàm phán, ký kết hợp đồng bị kéo dài, 
thiếu sự linh hoạt trong hoạt động thương 
mại, đặc biệt là thương mại quốc tế. Do đó, 
pháp luật Việt Nam nên quy định giống 
như Công ước Viên 1980. Khi đó, chỉ đối với 
những chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng 
có đưa ra những sửa đổi, bổ sung nội dung 
cơ bản của đề nghị giao kết hợp đồng mới coi 
là một đề nghị giao kết hợp đồng mới, còn 
đối với những sửa đổi, bổ sung không cơ bản 
cần được coi là chấp nhận đề nghị giao kết 
hợp đồng, trừ trường hợp bên đề nghị giao 
kết hợp đồng phản đối ngay lập tức.
Qua phân tích quy định của Công ước 
Viên 1980 trong tương quan so sánh với pháp 
luật Việt Nam cho thấy: BLDS năm 2015 đã 
có những bước tiến bộ vượt bậc so với quy 
định của BLDS năm 2005 về hợp đồng. Trong 
đó, BLDS năm 2015 đã ghi nhận nhiều vấn đề 
mới, phù hợp với pháp luật quốc tế như đưa 
thêm quy định về đề nghị giao kết hợp đồng 
gửi tới công chúng, thông tin trong giao kết 
hợp đồng, Tuy nhiên, với một số bất cập 
và chưa tương thích trong BLDS năm 2015 về 
giao kết hợp đồng với quy định của Công ước 
Viên 1980, cần thiết phải xem xét sửa đổi, bổ 
sung pháp luật Việt Nam để phù hợp hơn với 
pháp luật quốc tế, tạo ra một hành lang pháp 
lý vững mạnh và đạt hiệu quả cao, đủ sâu, đủ 
rộng để hội nhập vào sân chơi quốc tế./.

File đính kèm:

  • pdfgiao_ket_hop_dong_theo_quy_dinh_cua_cong_uoc_vien_1980_trong.pdf