Chính sách hậu tái định cư đối với dân tộc thiểu số ở một số dự án thủy điện ở nước ta hiện nay

Chính sách hậu tái định cư là những chính sách hỗ trợ cho cộng đồng và

người dân khu, điểm tái định cư nhằm hỗ trợ phát triển sinh kế, tạo việc

làm tăng thu nhập và giảm nghèo bền vững thông qua các giải pháp như

đào tạo nghề, hỗ trợ chuyển đổi nghề nghiệp, chuyển đổi cơ cấu cây trồng,

vật nuôi, đầu tư cơ sở hạ tầng, v.v. Mặc dù, các dự án thủy điện đều triển

khai các chính sách hỗ trợ ổn định cuộc sống cho người dân sau tái định

cư nhưng tỷ lệ nghèo của hộ dân tộc thiểu số ở các khu, điểm tái định cư

bình quân vẫn ở mức cao hơn mức bình quân chung của các hộ dân tộc

thiểu số; tỷ lệ hộ được đào tạo nghề và chuyển đổi nghề nghiệp thấp; việc

tái định cư chưa đáp ứng được nhu cầu về bảo tồn, duy trì bản sắc văn hóa

và phong tục truyền thống; yếu kém trong xử lý ô nhiễm môi trường sống

tại các khu, điểm tái định cư. Để khắc phục những bất cập trên, cần thực

hiện đồng bộ các giải pháp như: đào tạo nghề, chuyển đổi nghề nghiệp;

nâng cấp, sửa chữa cơ sở hạ tầng phục vụ sản xuất, sinh hoạt cộng đồng

và cung cấp các dịch vụ công; tập trung triển khai hoạt động giảm nghèo

bền vững; bảo tồn duy trì văn hóa cộng đồng và hỗ trợ hội nhập cộng đồng

vùng tái định cư; đảm bảo vệ sinh môi trường; và nghiên cứu thí điểm xây

dựng quỹ hỗ trợ người dân hậu tái định cư.

Chính sách hậu tái định cư đối với dân tộc thiểu số ở một số dự án thủy điện ở nước ta hiện nay trang 1

Trang 1

Chính sách hậu tái định cư đối với dân tộc thiểu số ở một số dự án thủy điện ở nước ta hiện nay trang 2

Trang 2

Chính sách hậu tái định cư đối với dân tộc thiểu số ở một số dự án thủy điện ở nước ta hiện nay trang 3

Trang 3

Chính sách hậu tái định cư đối với dân tộc thiểu số ở một số dự án thủy điện ở nước ta hiện nay trang 4

Trang 4

Chính sách hậu tái định cư đối với dân tộc thiểu số ở một số dự án thủy điện ở nước ta hiện nay trang 5

Trang 5

Chính sách hậu tái định cư đối với dân tộc thiểu số ở một số dự án thủy điện ở nước ta hiện nay trang 6

Trang 6

Chính sách hậu tái định cư đối với dân tộc thiểu số ở một số dự án thủy điện ở nước ta hiện nay trang 7

Trang 7

Chính sách hậu tái định cư đối với dân tộc thiểu số ở một số dự án thủy điện ở nước ta hiện nay trang 8

Trang 8

Chính sách hậu tái định cư đối với dân tộc thiểu số ở một số dự án thủy điện ở nước ta hiện nay trang 9

Trang 9

Chính sách hậu tái định cư đối với dân tộc thiểu số ở một số dự án thủy điện ở nước ta hiện nay trang 10

Trang 10

pdf 10 trang xuanhieu 1740
Bạn đang xem tài liệu "Chính sách hậu tái định cư đối với dân tộc thiểu số ở một số dự án thủy điện ở nước ta hiện nay", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Chính sách hậu tái định cư đối với dân tộc thiểu số ở một số dự án thủy điện ở nước ta hiện nay

Chính sách hậu tái định cư đối với dân tộc thiểu số ở một số dự án thủy điện ở nước ta hiện nay
ơi khác, nhiều khu TĐC bỏ
hoang. 
Theo kết quả khảo sát, tỷ lệ hoàn thành
giao đất sản xuất của các dự án TĐC bình
quân mới đạt 69% so với quy hoạch. Tình
trạng các hộ dân TĐC chưa được giao đủ đất
sản xuất so với hạn mức quy định tồn tại ở
nhiều nơi như: Dự án thủy điện Huội Quảng,
Bản Chát tỉnh Lai Châu, bình quân diện tích
đất sản xuất là 0,89 ha/hộ, thấp hơn so với
hạn mức quy định (1,2 - 1,5 ha/hộ); Dự án
thủy điện Bản Vẽ tỉnh Nghệ An còn 75 hộ
chưa nhận đất, với tổng diện tích còn thiếu
là 90,4 ha; Dự án thủy điện Hủa Na tỉnh
Nghệ An còn 746 hộ chưa được giao đủ đất
lúa, với tổng diện tích còn thiếu 57,8 ha, 311
hộ thiếu đất lâm nghiệp với tổng diện tích là
1.032 ha; Dự án thủy điện Đồng Nai 3 tỉnh
Đắk Nông còn 275 hộ chưa được giao đủ đất
sản xuất nông nghiệp, với tổng diện tích còn
thiếu là 257 ha; Dự án thủy điện Thượng
Kon Tum tỉnh Kon Tum còn 106 hộ chưa
được giao đủ đất sản xuất nông nghiệp, với
tổng diện tích còn thiếu là 75 ha. 
47Số 18 (418) - T9/2020
NGHIÊN CỨU
LẬP PHÁP
CHÍNH SÁCH
Hiện nay, tình trạng thiếu đất sản xuất
và đất ở đang làm cho cuộc sống của người
dân ở các khu, điểm TĐC của các công trình
thủy lợi và các công trình khác (thủy điện,
giao thông) ở vùng DTTS và miền núi đang
gặp rất nhiều khó khăn. Thiếu đất sản xuất
là nguyên nhân làm nhiều hộ TĐC quay về
khu vực lòng hồ canh tác. Điển hình như
thủy điện Bản Vẽ có 136 hộ (434 khẩu) quay
về cư trú canh tác trên khu vực lòng hồ, và
một số thủy điện khác như An Khê, Thác
Mơ, Hàm Thuận cũng có tình trạng này
nhưng ít hơn. 
c) Đời sống của người dân TĐC còn
nhiều khó khăn do thực hiện chưa tốt công
tác hỗ trợ chuyển đổi nghề nghiệp, phát triển
sinh kết và tạo việc làm của các hộ sau TĐC
Theo đánh giá của cán bộ chính quyền
các địa phương, người dân TĐC đang phải
đối mặt với những vấn đề như: thu nhập thấp
và thiếu việc làm, hoạt động sản xuất nông
nghiệp không hiệu quả. Tuy nhiên, tỷ lệ hộ
Số 18 (418) - T9/202048
NGHIÊN CỨU
LẬP PHÁP
CHÍNH SÁCH
được hỗ trợ tạo sinh kế sau TĐC vẫn còn
thấp, cụ thể: chỉ 23,7% số hộ được hỗ trợ
chuyển đổi nghề nghiệp; 19,5% được tập
huấn kỹ thuật; 16,3% được đào tạo nghề
mới; 12,8% được hỗ trợ nguyên liệu đầu vào
sản xuất; và chỉ 7,4% được hỗ trợ liên kết,
tiêu thụ sản phẩm. Với tỷ lệ được hỗ trợ thấp
như trên, trong khi phải đối mặt với nhiều
khó khăn sinh kế khi chuyển đổi nơi ở, có
thể thấy người dân TĐC đã trở thành một đối
tượng rất dễ bị tổn thương trong xã hội.
Tỷ lệ thấp như trên còn cho thấy, chính
sách hỗ trợ chuyển đổi nghề hay đa dạng hóa
sinh kế cho người dân thực hiện nhưng
không hiệu quả, thiếu bền vững. Như trên đã
đề cập, tỷ lệ các hộ tham gia đào tạo nghề mới
rất thấp chỉ 16,3%, nguyên nhân là do nhận
thức thấp của người dân về cơ hội chuyển đổi
việc làm, nhiều người lớn tuổi nên việc đào
tạo nghề, chuyển đổi nghề gặp khó khăn.
Trong khi đó, cơ hội tìm các việc làm phi
nông nghiệp ở các nhà máy, công ty ở địa
phương cũng không nhiều, tỷ lệ lao động địa
phương được nhận làm việc tại các công trình
thủy điện trên địa bàn rất thấp. Tập quán làm
việc tự do và có nhiều lễ hội trong năm của
người DTTS cũng ảnh hưởng tới chất lượng
và thời gian làm việc, khiến các doanh nghiệp
không ưu tiên tuyển chọn (một số địa phương
có các công ty cao su, mía đường như Bình
Thuận, Bình Phước, Gia Lai, người dân được
đào tạo vào làm ở các công ty này nhưng rất
nhiều lao động không thể tuân thủ kỷ luật và
bỏ việc không làm). Ngoài ra, theo các cán
bộ phụ trách đào tạo nghề ở các địa phương,
các đơn vị đào tạo nghề gặp khó khăn trong
chọn lựa ngành nghề để đào tạo (có nhu cầu
lao động nhiều, yêu cầu kỹ thuật không cao,
thời gian làm việc ổn định, mức thu nhập
đảm bảo v.v.) trong phạm vi khu vực gần với
các khu TĐC. 
d) Các công trình công cộng và nhà ở
của hộ TĐC nhanh chóng xuống cấp hoặc
bị bỏ hoang do không phù hợp với phong tục
tập quán
Đối với rất nhiều dự án thủy điện, các
khu TĐC đồng bộ đã được xây dựng. Tuy
nhiên, theo người dân, việc thiết kế, xây
dựng các khu TĐC chưa quan tâm đến
phong tục, tập quán, và văn hóa của các cộng
đồng người DTTS nên nhiều công trình nhà
ở và công trình công cộng sau khi đưa vào
sử dụng không được người dân sử dụng.
Kết quả khảo sát cho thấy, tại các khu,
điểm TĐC có xây nhà đồng bộ hầu hết đã
xuống cấp nghiêm trọng, tỷ lệ nhà bỏ hoang
khá nhiều (ở khu TĐC thủy điện Hạm Thuận
tỉnh Bình Thuận ước tỉnh khoảng 30% số
nhà bị bỏ hoang; thủy điện Bản Vẽ tỉnh
Nghệ An nhiều khu nhà TĐC di vén gần
lòng hồ đã bỏ hoang từ nhiều năm; thủy điện
Thác Mơ tỉnh Bình Phước, Sông Tranh 2
tỉnh Quảng Nam cũng trong tình trạng tương
tự. Đối với các dự án thủy điện ở giai đoạn
sau năm 2013, rút kinh nghiệm từ sự thiếu
hiệu quả của các khu TĐC xây dựng đồng
bộ nên các dự án đã chuyển qua hỗ trợ tiền
để người dân tự xây dựng nhà ở hoặc vận
chuyển nhà từ nơi ở cũ về nơi ở mới. 
Tình trạng thiếu quy hoạch các công
trình phụ (nhà bếp, nhà vệ sinh, chuồng
trại) ở các khu, điểm TĐC rất phổ biến.
Nhiều khu TĐC tập trung có xây nhà vệ sinh
cho các hộ, nhưng do không phù hợp với
phong tục, tập quán, văn hóa nên các hộ
không sử dụng và chuyển đổi thành nhà kho
(điển hình như tại khu TĐC An Khê- Kanak
Gia Lai). Theo người dân, nguyên nhân do
khi quy hoạch đã không tính toán khoảng
cách từ nhà vệ sinh với nhà ở, dẫn tới xây
quá sát với nhà ở gây ô nhiễm, không phù
49Số 18 (418) - T9/2020
NGHIÊN CỨU
LẬP PHÁP
CHÍNH SÁCH
10 Nguồn: Khảo sát tại các tỉnh, 2018-2019.
11 Nguồn: Khảo sát tại các tỉnh, 2018-2019.
hợp với phong tục của người DTTS là nhà
vệ sinh phải cách xa nhà ở.
Khảo sát các khu, điểm TĐC cho thấy,
các công trình dịch vụ công như: đường giao
thông, hệ thống cấp nước sinh hoạt, nhà văn
hóa, hệ thống điện chưa được xây dựng.
Nhiều khu TĐC sau 10 năm mới có điện lưới
như khu TĐC của thủy điện Bản Vẽ (Nghệ
An). Một số dự án thu hồi đất trong giai đoạn
quy hoạch treo đã 10 năm gây khó khăn cho
cuộc sống của các hộ do không được đầu tư
cơ sở hạ tầng, đường, điện (như dự án Thủy
lợi Bản Mồng, Nghệ An).
Một số khu TĐC đã có các công trình
công cộng nhưng xuống cấp nghiêm trọng.
Đặc biệt, đối với các công trình đường giao
thông, nước sinh hoạt sau một thời gian ngắn
sử dụng rất nhiều công trình đã hư hỏng. Chỉ
có khoảng 47,0% người dân TĐC tiếp cận
được nước sạch (gồm nước máy vào nhà,
nước máy công cộng, giếng khoan và giếng
đào), trong khi mức tiếp cận này ở các hộ
ĐC là 62,0%. Các hộ TĐC chủ yếu dùng
nước chảy từ các khe suối chiếm 45,3%,
trong khi các hộ đối chứng dùng nhiều nhất
là nước từ giếng đào 34,3%. Tình trạng thiếu
nước nghiêm trọng nhất tại khu TĐC các
công trình giao thông tại Bình Phước, hầu
hết các giếng nước đào ở đây đã cạn nước,
khu cấp nước tập trung cũng đã cạn và hư
hỏng nghiêm trọng, người dân phải mua
nước từ các xe chở nước và không đủ nước
để cho sinh hoạt hàng ngày10. 
Ngoài ra, nhà sinh hoạt động đồng cũng
hư hỏng, nhiều khu bị bỏ hoang như tại thủy
điện An Khê- Kanak Gia Lai.
e) Chưa đáp ứng được nhu cầu về bảo
tồn, duy trì bản sắc văn hóa và phong tục
truyền thống tại các khu, điểm TĐC.
Đối với nhiều dự án thủy điện lớn như:
Sơn La, Lai Châu, Tuyên Quang, Bản Vẽ -
Nghệ An đã thực hiện di dời nhiều cộng
đồng người dân tộc thiểu số. Tuy nhiên, ở
nhiều nơi, những người di dời phải ở xen
ghép với những cộng đồng dân tộc tại chỗ.
Điều này dẫn tới nhiều hoạt động văn hóa
truyền thống của các dân tộc khó được duy
trì và đang bị mai một dần. Điều này thể hiện
rõ nhất ở tần suất sinh hoạt văn hóa cộng
đồng, tổ chức lễ hội truyền thống tại các khu
TĐC thấp hơn so với các khu đối chứng và
đánh giá của người dân về mức độ quan
trọng của “già làng, trưởng bản” ở các khu
TĐC cũng kém quan trọng hơn so với nơi
đối chứng. Cụ thể, 25,04% hộ TĐC đồng ý
tần suất tổ chức trong những năm gần đây ít
hơn so với trước kia, tỷ lệ của hộ đối chứng
là 21,01%. Tỷ lệ đánh giá kém quan trọng
hơn của già làng, trưởng bản của các hộ
TĐC là 13,55%, trong khi đó các hộ đối
chứng đánh giá là 10,76%. Ngoài ra, ở một
số nơi, do nhà văn hóa cộng đồng được xây
dựng với chất lượng kém, đến nay đã xuống
cấp, người dân không dám sử dụng trong
những ngày mưa bão vì sợ sập (TĐC thủy
điện Bản Vẽ - Nghệ An, Hàm Thuận - Bình
Thuận)11. 
Mâu thuẫn trong cộng đồng cũng đang
là vấn đề đặt ra đối với các khu TĐC, đặc
biệt là tại các khu TĐC xen ghép, hay các
khu TĐC mà cộng đồng TĐC sống gần các
cộng đồng bản địa khác. Kết quả khảo sát
Số 18 (418) - T9/202050
NGHIÊN CỨU
LẬP PHÁP
CHÍNH SÁCH
cho thấy, 13,1% hộ TĐC đánh giá các mâu
thuẫn trong cộng đồng tăng hơn so với 5
năm trước đây, trong khi hộ đối chứng chỉ
8,5%12.
f) Yếu kém trong xử lý ô nhiễm môi
trường sống tại các khu, điểm TĐC
Do khi thiết kế quy hoạch khu TĐC các
chủ đầu tư đã không chú ý quy hoạch khu xử
lý rác thải, thu gom nước thái sinh hoạt, sản
xuất. Đến nay, tình trạng ô nhiêm môi trường
đang rất phổ biến tại các khu TĐC, rác thải
sinh hoạt, rác thải từ chăn nuôi thải trực tiếp
ra môi trường gần khu dân cư gây ô nhiễm,
gây nguy cơ dịch bệnh đối với cộng đồng
(điển hình tại các khu TĐC của thủy điện
Bản Vẽ - Nghệ An, thủy điện An Khê -
Kanak Gia Lai). Ngoài ra, tình trạng thiếu
nước sinh hoạt đang rất phổ biến ở nhiều khu
TĐC cũng gây ảnh hưởng lớn tới việc giữ
gìn vệ sinh môi trường sống tại các khu
TĐC, đặc biệt ở một số khu như TĐC thủy
điện Sơn La, thủy điện Bình Phước, thậm chí
người dân phải mua nước sinh hoạt từ các xe
téc với giá cao.
3. Một số giải pháp hoàn thiện chính sách
Trên cơ sở kết quả khảo sát, chúng tôi
kiến nghị một số giải pháp hoàn thiện chính
sách hậu TĐC đối với đồng bào dân tộc thiểu
số ở các dự án thủy điện sau đây:
a) Hỗ trợ công tác giảm nghèo
Cần ưu tiên thực hiện các giải pháp sau
để hỗ trợ giảm nghèo cho các khu TĐC: (i)
tiếp tục rà soát, đẩy mạnh chính sách giao
đất cho hộ DTTS, đặc biệt diện tích rừng do
các đơn vị nhà nước đang quản lý, các công
ty nông lâm nghiệp ở các địa phương; (ii) hỗ
trợ phát triển sản xuất nông nghiệp (nghiên
cứu thử nghiệm các loại giống cây trồng, vật
nuôi, thủy sản mới phù hợp với từng địa
phương; tăng cường các hoạt động khuyến
nông bằng cách xây dựng các mô hình trình
diễn về cây, con mới ở địa phương để người
dân học hỏi và làm theo; (iii) ưu tiên cho các
hộ TĐC tiếp cận nguồn vốn vay tín chấp
hoặc vay theo chuỗi giá trị với lãi suất ưu
đãi; ưu tiên cấp vốn vay ưu đãi cho các
doanh nghiệp đầu tư sản xuất nông nghiệp,
đặc biệt với các dự án có khả năng thu hút
lao động từ các khu TĐC.
b) Nâng cấp, sửa chữa cơ sở hạ tầng
phục vụ cộng đồng và dịch vụ công
Cần phải có chính sách, quy định để các
địa phương lồng ghép việc sửa chữa nâng
cấp các công trình cơ sở hạ tầng tại các khu
TĐC với các chương trình lớn như Chương
trình mục tiêu quốc gia nông thôn mới.
Ngoài ra, cần nghiên cứu xây dựng cơ chế
để sử dụng nguồn kinh phí trích từ nguồn
đóng góp hàng năm của các nhà máy thủy
điện cho các địa phương cho việc đầu tư duy
tu, sửa chữa các công trình cơ sở hạ tầng ở
các khu TĐC.
c) Đào tạo nghề, chuyển đổi nghề
nghiệp
Để công tác đào tạo nghề đồng bào
DTTS ở các khu, điểm TĐC hiệu quả, cần
thực hiện một số các giải pháp sau:
Thứ nhất, cần điều chỉnh bổ sung tăng
kinh phí cho việc đào tạo nghề đối với đồng
bào các dân tộc TĐC ở các công trình thủy
điện trong các quyết định phê duyệt các công
trình, dự án.
Thứ hai, tăng cường đầu tư cơ sở vật
chất, trang thiết bị cho các cơ sở đào tạo
nghề trong vùng TĐC hoặc cơ sở có điều
kiện phù hợp nhằm giúp cho học viên có
12 Nguồn: Khảo sát tại các tỉnh, 2018-2019.
51Số 18 (418) - T9/2020
NGHIÊN CỨU
LẬP PHÁP
CHÍNH SÁCH
điều kiện nắm bắt tốt những kiến thức đã học
để áp dụng vào trong công việc tại nơi ở
mới. Đồng thời, có chính sách đãi ngộ phù
hợp để thu hút những giáo viên dạy nghề
giỏi, có kinh nghiệm về công tác tại các cơ
sở đào tạo nghề trên địa bàn tỉnh.
Thứ ba, đa dạng hóa loại hình đào tạo
nghề cho phù hợp với lao động của đồng
bào. Chẳng hạn như đối với đồng bào tại các
điểm, khu TĐC cần có phương án hỗ trợ
người dân khai thác tiềm năng nuôi trồng,
đánh bắt thủy sản ở lòng hồ, hỗ trợ người
dân TĐC chuyển đổi cơ cấu cây trồng, phát
triển thương mại, dịch vụ Đẩy mạnh đào
tạo những nghề có thu nhập cao và nhu cầu
xã hội đang cần như lao động tại các khu
công nghiệp hay xuất khẩu lao động.
Thứ tư, đẩy mạnh công tác tuyên truyền,
nâng cao nhận thức cho đồng bào trong việc
định hướng nghề phù hợp với từng lứa tuổi,
địa bàn... Tăng cường tự kiểm định chất
lượng dạy nghề nhằm phát huy được nghề
nghiệp đối với mỗi người sau khi học nghề.
d) Bảo tồn, duy trì văn hóa cộng đồng
và hỗ trợ hội nhập cộng đồng vùng TĐC
Cần xây dựng và có kế hoạch bảo tồn
các lễ hội, phong tục, tập quán của người dân
các khu TĐC; các địa phương cần đưa vào
kế hoạch hàng năm tổ chức các lễ hội văn
hóa theo đặc thù của các dân tộc, huy động
người dân tham gia để thúc đẩy giao lưu văn
hóa giữa cộng đồng TĐC và cộng đồng
người dân sở tại để giúp người dân TĐC
nhanh chóng hòa nhập với địa phương; hỗ
trợ cộng đồng người DTTS xây dựng nhà
văn hóa cộng đồng theo đúng phong tục, tập
quán, bằng các vật liệu như ở nơi ở cũ. 
e) Giải pháp bảo vệ môi trường sống
Bổ sung quy định về xây dựng các công
trình xử lý ô nhiễm môi trường trong các dự
án TĐC, xây dựng chương trình giáo dục
truyền thông cho cộng đồng TĐC nhằm
nâng cao nhận thức về môi trường sống,
chăn nuôi cách xa khu dân cư, thu gom và
xử lý rác thải sinh hoạt, rác thải chăn nuôi
hợp vệ sinh; coi các khu TĐC là địa bàn ưu
tiên trong thực hiện Chương trình mục tiêu
quốc gia nông thôn mới để lồng ghép, vận
dụng nguồn lực thực hiện. 
f) Xây dựng quỹ hỗ trợ người dân hậu
TĐC
Cần nghiên cứu thành lập quỹ hỗ trợ đầu
tư sau TĐC, gọi là Quỹ TĐC, dùng để hỗ trợ
ổn định đời sống, sản xuất cho người dân
vùng TĐC và duy tu bảo dưỡng một số công
trình giao cho cộng đồng quản lý. Nguồn
kinh phí trích từ kinh phí đóng góp của nhà
máy thủy điện cho địa phương hàng năm.
4. Kết luận
Sau khi người dân chuyển về các khu
TĐC, rất nhiều chính sách hỗ trợ người dân
ổn định cuộc sống được thực hiện như: hỗ
trợ sinh kế, trợ cấp lương thực, chuyển đổi
nghề nghiệp và đào tạo nghề Tuy nhiên,
quá trình thực hiện được đánh giá là chưa
hiệu quả, có rất nhiều chính sách thực hiện
chậm như chính sách hỗ trợ đất sản xuất ở
nhiều tỉnh (tỷ lệ giao đất chỉ đạt bình quân
69%), chính sách đào tạo nghề không hiệu
quả do ít người tham gia, chuyển đổi nghề
nghiệp không thực hiện được do thiếu các
công việc phí nông nghiệp cho người dân,
trong khi các hoạt động nông nghiệp sản
xuất nhỏ lẻ, năng suất thấp, không hiệu quả
dẫn đến tỷ lệ nghèo tại các khu, điểm TĐC
vẫn cao hơn so với bình quân chung của
vùng DTTS và miền núi. Chính vì thế, trong
thời gian tới cần phải thực hiện triệt để các
giải pháp được đề xuất trong nghiên cứu này
nhằm giải quyết những khó khăn trong phát
triển kinh tế của hộ DTTS và giảm nghèo
bền vững n

File đính kèm:

  • pdfchinh_sach_hau_tai_dinh_cu_doi_voi_dan_toc_thieu_so_o_mot_so.pdf