Giải pháp thu hút khách du lịch quốc tế quay trở lại thành phố Đà Nẵng sau tác động của đại dịch Covid-19

Đại dịch COVID-19 đã có những ảnh hưởng và tác động tiêu cực đến đời sống kinh tế của thế giới nói chung và của Việt Nam nói riêng. Các ngành du lịch quốc tế rất khó có khả năng trở lại trạng thái bình thường trong tương lai gần. Đà Nẵng là một trong những thành phố đang bị ảnh hưởng rất mạnh bởi đây là nơi có lượng khách quốc tế đến hàng năm rất lớn. Để đối phó và cải thiện tình hình này, các cấp chính quyền ở Đà Nẵng đã phải cùng nhau tìm giải pháp để thu hút lượng khách quốc tế quay trở lại. Bằng cách sử dụng phương pháp nghiên cứu định tính, nghiên cứu này phân tích các tác động tổng thể của đại dịch Covid-19 đối với ngành du lịch, các rào cản thu hút khách du lịch quốc tế quay trở lại Đà Nẵng. Nghiên cứu cũng sẽ đưa ra những định hướng phát triển như đa dạng hóa thị trường khách du lịch, giảm sự phụ thuộc vào một số thị trường nhất định, hạn chế rủi ro trước các vấn đề khu vực và thế giới nhằm góp phần phục hồi ngành du lịch, lữ hành Đà Nẵng và thu hút sự quay trở lại của thị trường khách du lịch quốc tế sau đại dịch

Giải pháp thu hút khách du lịch quốc tế quay trở lại thành phố Đà Nẵng sau tác động của đại dịch Covid-19 trang 1

Trang 1

Giải pháp thu hút khách du lịch quốc tế quay trở lại thành phố Đà Nẵng sau tác động của đại dịch Covid-19 trang 2

Trang 2

Giải pháp thu hút khách du lịch quốc tế quay trở lại thành phố Đà Nẵng sau tác động của đại dịch Covid-19 trang 3

Trang 3

Giải pháp thu hút khách du lịch quốc tế quay trở lại thành phố Đà Nẵng sau tác động của đại dịch Covid-19 trang 4

Trang 4

Giải pháp thu hút khách du lịch quốc tế quay trở lại thành phố Đà Nẵng sau tác động của đại dịch Covid-19 trang 5

Trang 5

Giải pháp thu hút khách du lịch quốc tế quay trở lại thành phố Đà Nẵng sau tác động của đại dịch Covid-19 trang 6

Trang 6

Giải pháp thu hút khách du lịch quốc tế quay trở lại thành phố Đà Nẵng sau tác động của đại dịch Covid-19 trang 7

Trang 7

Giải pháp thu hút khách du lịch quốc tế quay trở lại thành phố Đà Nẵng sau tác động của đại dịch Covid-19 trang 8

Trang 8

Giải pháp thu hút khách du lịch quốc tế quay trở lại thành phố Đà Nẵng sau tác động của đại dịch Covid-19 trang 9

Trang 9

Giải pháp thu hút khách du lịch quốc tế quay trở lại thành phố Đà Nẵng sau tác động của đại dịch Covid-19 trang 10

Trang 10

Tải về để xem bản đầy đủ

pdf 13 trang xuanhieu 7180
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Giải pháp thu hút khách du lịch quốc tế quay trở lại thành phố Đà Nẵng sau tác động của đại dịch Covid-19", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Giải pháp thu hút khách du lịch quốc tế quay trở lại thành phố Đà Nẵng sau tác động của đại dịch Covid-19

Giải pháp thu hút khách du lịch quốc tế quay trở lại thành phố Đà Nẵng sau tác động của đại dịch Covid-19
lý rác thải này phù hợp với các quy định về việc 
phân hủy chất thải lây nhiễm. 
4.4. Ứng dụng “Du lịch Việt Nam an toàn” 
Ngày 10/10/2020, Tổng cục Du lịch chính 
thức ra mắt ứng dụng “Du lịch Việt Nam an 
toàn”, vận hành trên cả hai hệ điều hành IOS và 
Android các thiết bị thông mình. Ứng dụng này 
tích hợp đầy đủ các tính năng cung cấp cho du 
khách những thông tin hữu ích về an toàn khi đi 
du lịch. Bản đồ số trong ứng dụng này giúp du 
khách tìm hiểu và có được thông tin của các 
đơn vị du lịch bao gồm khách sạn, nhà hàng, 
căn hộ du lịch, khu vui chơi, vận tải, bệnh viện, 
nhà thuốc... đã đăng ký và đạt tiêu chuẩn an 
toàn và vệ sinh theo các yêu cầu của cơ quan 
quản lý nhà nước. Với ứng dụng này, du khách 
cũng có thể tìm hiểu và cập nhật các thông tin 
về dịch bệnh do Bộ Y tế cung cấp như chi tiết 
số người mắc bệnh, độ tuổi bệnh nhân, số 
người khỏi bệnh tất cả thông tin đều được 
đăng tải và cập nhật nhanh chóng. Bên cạnh đó, 
thông qua ứng dụng, người truy cập cũng có thể 
tra cứu những thông tin mới nhất liên quan đến 
điểm đến, các chương trình khuyến mãi, các gói 
ưu đãi để có những lựa chọn phù hợp cho 
chuyến đi của mình. Khi đến cơ sở kinh doanh 
dịch vụ du lịch, du khách sử dụng ứng dụng 
“Du lịch an toàn Việt Nam” để kiểm tra xem cơ 
sở đã đăng ký các tiêu chuẩn an toàn về vệ sinh 
và phòng chống dịch bệnh theo yêu cầu của 
chính phủ và cơ quan chức năng hay chưa. 
Ngoài ra, khách hàng còn có thể đưa ra đánh 
giá, phản hồi, bình luận của chính mình ngay 
trên ứng dụng và đăng tải hình ảnh để phản ánh 
về chất lượng dịch vụ của các đơn vị. Đà Nẵng 
nên khuyến khích khách du lịch cài đặt ứng 
dụng này khi họ đến các sân bay quốc tế, bến 
cảng... Ứng dụng này quả thật rất hữu ích và 
thông minh đối với du khách trong giai đoạn 
hậu COVID-19, vì thế Đà Nẵng nên quảng cáo 
ứng dụng này kèm theo video quảng cáo về Đà 
Nẵng để khách quốc tế có thể biết đến. Thông 
tin về ứng dụng nên được đăng tải trên các bài 
báo điện tử của kênh CNN vì CNN đang có 
lượng người theo dõi rất lớn. 
4.5. Chuẩn bị cho sự trở lại 
Khi dịch bệnh được khống chế hoàn toàn, Đà 
Nẵng cần có các chính sách tập trung nâng cao 
năng lực cạnh tranh của ngành du lịch, cụ thể: 
- Mở rộng danh sách các nước được miễn 
visa du lịch khi nhập cảnh vào Đà Nẵng. Chẳng 
hạn, những nước như New Zealand, Australia 
đang có khả năng an toàn trong đại dịch và 
khách chi tiêu cao. Trước đây họ đến Indonesia, 
Singapore, Thái Lan nhiều, bây giờ Việt Nam 
sẽ thu hút nguồn khách này rất tốt. 
Hồ Minh Phúc, Trịnh Thị Kim Chung / Tạp chí Khoa học và Công nghệ Đại học Duy Tân 3(46) (2021) 3-15 13 
- Tiếp tục hỗ trợ giảm chi phí cho ngành du 
lịch Đà Nẵng để tạo lợi thế cạnh tranh về giá như 
miễn, giảm các loại phí, lệ phí, thuế trong ngành 
du lịch. Sau đại dịch COVID-19, các doanh 
nghiệp kinh doanh du lịch lớn hay nhỏ đều bị ảnh 
hưởng vô cùng nặng nề. Để có thể góp phần vực 
dậy ngành du lịch của Đà Nẵng, thành phố cần 
quan tâm nhiều hơn đến các doanh nghiệp, đề ra 
các phương án giảm thuế, giảm một số khoản phí 
sẽ góp phần giúp đỡ, hỗ trợ các doanh nghiệp du 
lịch vượt qua khó khăn và tiếp tục nỗ lực thu hút 
khách du lịch quay trở lại. 
- Đẩy mạnh liên kết giữa các doanh nghiệp 
trong việc xây dựng các gói sản phẩm khuyến 
mại nhằm thúc đẩy nhu cầu du lịch. Sau đại 
dịch, du khách sẽ có xu hương tiết kiệm chi phí 
cho chuyến đi, cũng như quan tâm nhiều đến 
các gói du lịch với mức giá ưu đãi. Qua đó, 
doanh nghiệp nên phát triển nhiều gói du lịch 
đa dạng cung cấp cho du khách, với tiêu chí 
chất lượng dịch vụ được nâng cao và mức giá 
ưu đãi. Nhà nước hỗ trợ chi phí quảng cáo và 
một số loại lệ phí liên quan (vé vào cổng, sân 
bay...) như miễn phí vé tham quan các điểm du 
lịch trong thành phố như Bảo tàng Điêu khắc 
Chăm, Ngũ Hành Sơn, thậm chí hỗ trợ trực tiếp 
chi phí quảng cáo cho các doanh nghiệp. 
- Hãng du lịch lớn nên hợp tác với các công 
ty bảo hiểm để mở rộng phạm vi bảo hiểm. Cụ 
thể bên cạnh việc cung cấp bảo hiểm du lịch 
gồm những quyền lợi như: Huỷ chuyến bay, 
chuyến bay bị trì hoãn, khách hàng mất giấy tờ 
tuỳ thân hay hành lý, chi phí vận chuyển y tế 
cấp cứu, chi phí điều trị bao gồm nội trú và 
ngoại trú tại bệnh viện thì doanh nghiệp cũng 
nên cung cấp thêm các loại bảo hiểm liên quan 
đến bệnh viêm phổi do vi rút Corona, và du 
khách sẽ được hưởng các chính sách bảo hiểm 
cả trong và sau khi hành trình kết thúc khoảng 
15 ngày. 
- Đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị cho các 
trung tâm y tế, bệnh viện. Nâng cao chất lượng 
dịch vụ y tế hoặc chăm sóc sức khỏe giúp du 
khách thoải mái, giảm thiểu lo lắng khi gặp vấn 
đề về sức khỏe trong quá trình du lịch. Du khách 
sẽ cảm thấy an tâm hơn nếu một điểm đến có hệ 
thống y tế và chăm sóc sức khỏe phát triển. 
5. Kết luận 
5.1. Đề xuất hàm ý 
Một trong những mục đích của nghiên cứu 
này là làm rõ tác động của việc nhận thức rủi ro 
về sức khỏe và những thay đổi trong thái độ, hành 
vi của khách du lịch sau đại dịch COVID-19. 
Hiểu được những biến động trong hành vi của 
khách du lịch là cơ sở giúp các điểm đến thực 
hiện các chiến lược phù hợp để phục hồi và thu 
hút ý định quay trở lại của khách du lịch, đặc 
biệt là khách quốc tế. Tác động của đại dịch là 
rất lớn và đòi hỏi một nghiên cứu liên ngành. 
Vì đại dịch COVID-19 vẫn là một cuộc khủng 
hoảng đang diễn ra, nên rất khó để có được một 
bức tranh tổng thể. Do đó, tác giả tin rằng dữ 
liệu và thông tin vẫn nên được cập nhật. Hy 
vọng rằng đây là một trong nhiều nghiên cứu sẽ 
đưa ra một số giải pháp để thu hút ý định quay 
trở lại Đà Nẵng của du khách quốc tế sau đại 
dịch COVID-19. Nghiên cứu một lần nữa 
khẳng định sự gia tăng của việc nhận thức nguy 
cơ về sức khỏe và nó khiến du khách có xu 
hướng tìm đến điểm đến an toàn sau đại dịch 
COVID-19. Đối mặt với nhiều lo lắng về cuộc 
khủng hoảng này, du khách có xu hướng thay 
đổi trong hành vi du lịch. Cũng cần hiểu rõ tác 
động của khủng hoảng đối với ngành du lịch và 
hình ảnh điểm đến. Nhưng trong nghiên cứu 
này, chúng tôi nhấn mạnh tầm quan trọng của 
phân khúc khách du lịch quốc tế đối với ngành 
du lịch Đà Nẵng và đưa ra các giải pháp để thu 
hút ý định trở lại Đà Nẵng của họ sau đại dịch 
COVID-19. Một trong những chiến lược giúp 
giảm thiểu nhận thức của du khách về rủi ro đối 
với sức khỏe là điểm đến phải đảm bảo an toàn 
để du khách không cảm thấy lo lắng trong quá 
trình di chuyển. Với sự phát triển của công 
nghệ thông tin trong nền công nghiệp 4.0, các 
Hồ Minh Phúc, Trịnh Thị Kim Chung / Tạp chí Khoa học và Công nghệ Đại học Duy Tân 3(46) (2021) 3-15 14 
doanh nghiệp du lịch có thể ứng dụng các công 
nghệ vào quá trình kinh doanh và phục vụ du 
khách. Công nghệ hiện đại cần được lắp đặt ở 
mọi nơi từ sân bay, nhà nghỉ, bảo tàng, công 
viên giải trí, điểm tham quan... để giảm nhận 
thức rủi ro về sức khỏe của khách du lịch và 
ngăn chặn sự lây lan của vi rút. Các chiến lược 
tiếp thị kỹ thuật số cũng góp phần quan trọng 
trong việc khẳng định hình ảnh của điểm đến và 
thu hút khách du lịch quốc tế đến Đà Nẵng. 
Ngoài ra, những điểm đến du lịch cũng cần có 
chiến lược quảng bá phù hợp và thực hiện các 
kế hoạch phòng chống dịch theo quy định của 
nhà nước. 
Chính phủ đóng một vai trò quan trọng trong 
cuộc chiến chống lại COVID-19 ở nhiều cấp 
độ, chẳng hạn như phục hồi nền kinh tế trong 
đó có ngành du lịch. Hơn nữa, các doanh 
nghiệp trong ngành du lịch tại Đà Nẵng nên cố 
gắng vượt qua cơn bão, có rất nhiều khoản vay 
do chính phủ tài trợ không tính lãi suất để giúp 
doanh nghiệp vượt qua thời kỳ khó khăn này. 
Việc đóng cửa doanh nghiệp hoặc sa thải nhân 
viên có thể gây ra những hậu quả tàn khốc cho 
toàn thành phố. 
5.2. Hạn chế của nghiên cứu 
Vì sự khan hiếm thông tin và tính chất liên 
tục của dịch bệnh, cần phải đề cập đến những 
hạn chế của nghiên cứu. Đầu tiên, nghiên cứu 
chỉ giới hạn trong việc sử dụng phương pháp 
nghiên cứu định tính. Mặc dù những phát hiện 
này là hữu ích, nhưng sẽ thuyết phục hơn nếu 
phương pháp nghiên cứu định lượng có thể 
được sử dụng để cung cấp một góc nhìn khác 
về nghiên cứu này. 
Hướng nghiên cứu trong tương lai có thể 
được truyền cảm hứng dựa trên những phát 
hiện của nghiên cứu này. Những khủng hoảng 
của đại dịch này vẫn đang diễn ra, do đó, nhiều 
vấn đề có thể chưa được cập nhật trong khi 
nghiên cứu này được thực hiện. Vì vậy, các 
nghiên cứu trong tương lai được khuyên nên 
tiếp tục quan sát tình hình để tìm ra các hướng 
nghiên cứu khác. Thứ hai, việc triển khai các 
công nghệ để giúp các điểm đến giảm nhận 
thức rủi ro sức khỏe là một quá trình của toàn 
công ty, doanh nghiệp; nhiều công nghệ có thể 
được áp dụng ở các cơ sở khách sạn, chẳng hạn 
như phòng khách sạn, hành lang, quầy lễ tân, 
nhà hàng, hồ bơi, v.v... Tuy nhiên, việc áp dụng 
quá nhiều công nghệ có thể khiến các điểm đến 
gặp phải tình trạng chi phí cao, giảm nhân sự và 
mối quan hệ giữa khách hàng cũng hạn chế. 
Nghiên cứu trong tương lai cần xem xét tác 
động của các công nghệ rộng lớn hơn đối với 
hoạt động tổng thể của khách sạn. 
Tài liệu tham khảo 
[1] Çetinsöz, B. C., & Ege, Z. (2013). Impacts of 
perceived risks on tourists' revisit 
intentions. Anatolia, 24(2), 173-187. 
[2] Artuğer, S. (2015). The effect of risk perceptions on 
tourists’ revisit intentions. European Journal of 
Business and Management, 7(2), 36-43. 
[3] Huang, S., & Hsu, C. H. (2009). Effects of travel 
motivation, past experience, perceived constraint, 
and attitude on revisit intention. Journal of travel 
research, 48(1), 29-44. 
[4] Rittichainuwat, B. N., & Chakraborty, G. (2009). 
Perceived travel risks regarding terrorism and 
disease: The case of Thailand. Tourism 
Management, 30(3), 410-418. 
[5] Gut, P., & Jarrell, S. (2007). Silver lining on a dark cloud: 
The impact of 9/11 on a regional tourist 
destination. Journal of Travel Research, 46(2), 147-153. 
[6] Séraphin, H., & Butler, C. (2013). Impacts of the slave 
trade on the service industry in Kenya and Haiti: The 
case of the Tourism and Hospitality sector. Journal of 
hospitality and tourism, 11(1), 71-89. 
[7] Slovic, P. (1987). Perception of risk. Science, 
236(4799), 280-285. 
[8] Sitkin, S. B., & Pablo, A. L. (1992). Reconceptualizing 
the determinants of risk behavior. Academy of 
management review, 17(1), 9-38. 
[9] Irvine, W., & Anderson, A. R. (2006). The impacts of 
foot and mouth disease on a peripheral tourism area: 
The role and effect of crisis management. Journal of 
Travel & Tourism Marketing, 19(2-3), 47-60. 
[10] Shin, H., & Kang, J. (2020). Reducing perceived 
health risk to attract hotel customers in the COVID-
19 pandemic era: Focused on technology innovation 
for social distancing and cleanliness. International 
Journal of Hospitality Management, 91, 102664. 
Hồ Minh Phúc, Trịnh Thị Kim Chung / Tạp chí Khoa học và Công nghệ Đại học Duy Tân 3(46) (2021) 3-15 15 
[11] Chebli, A. (2020). The impact of Covis-19 on tourist 
consumption behavior: a perspective article. 
 Baker, D. A., & Crompton, J. L. (2000). Quality, 
satisfaction and behavioral intentions. Annals of 
tourism research, 27(3), 785-804. 
[12] Yeh, S. S. (2020). Tourism recovery strategy against 
COVID-19 pandemic. Tourism Recreation 
Research, 1-7. 
[13] Tseng, S. Y., & Wang, C. N. (2016). Perceived risk 
influence on dual-route information adoption 
processes on travel websites. Journal of Business 
Research, 69(6), 2289-2296. 
[14] Madani, A., Boutebal, S. E., Benhamida, H., & 
Bryant, C. R. (2020). The Impact of COVID-19 
Outbreak on the Tourism Needs of the Algerian 
Population. Sustainability, 12(21), 8856. 
[15] Gursoy, D., & Chi, C. G. (2020). Effects of COVID-
19 pandemic on hospitality industry: review of the 
current situations and a research agenda. 
[16] Bae, S. Y., & Chang, P. J. (2020). The effect of 
coronavirus disease-19 (COVID-19) risk perception 
on behavioral intention towards ‘untact’tourism in 
South Korea during the first wave of the pandemic 
(March 2020). Current Issues in Tourism, 1-19. 
[17] Caldito, L. A., Dimanche, F., & Ilkevich, S. (2015). 
Tourist behavior and trends. Tourism in Russia: a 
management handbook. Emerald Group Publishing 
Limited, Bingley, West Yorkshire, UK, 101-130. 
[18] Chebli, A., Othmani, M. C., & Said, F. B. (2020). 
Market segmentation in urban tourism: Exploring 
the influence of personal factors on tourists' 
perception. Journal of Tourism and 
Services, 11(20), 74-108. 
[19] Van Bavel, J. J., Baicker, K., Boggio, P. S., Capraro, 
V., Cichocka, A., Cikara, M., ... & Drury, J. (2020). 
Using social and behavioral science to support 
COVID-19 pandemic response. Nature Human 
Behavior, 1-12. 
[20] World Health Organization. (2020). Management of 
ill travelers at points of entry–international 
airports, seaports and ground crossings–in the 
context of COVID-19 outbreak: interim guidance, 
16 February 2020 (No. WHO/2019-nCoV/ 
POEmgmt/2020.1). World Health Organization. 
[21] Shin H., Perdue R.R., Kang J. Front desk technology 
innovation in hotels: a managerial 
perspective. Tour. Manag. 2019; 74:310–318. 
[22] Ivanov, S. H., Webster, C., & Berezina, K. (2017). 
Adoption of robots and service automation by 
tourism and hospitality companies. Revista Turismo 
& Desenvolvimento, 27(28), 1501-1517. 
[23] Van, N. T. T., Vrana, V., Duy, N. T., Minh, D. X. 
H., Dzung, P. T., Mondal, S. R., & Das, S. (2020). 
The Role of Human–Machine Interactive Devices 
for Post-COVID-19 Innovative Sustainable Tourism 
in Ho Chi Minh City, Vietnam. 
Sustainability, 12(22), 9523. 
[24] Chew, E. Y. T., & Jahari, S. A. (2014). Destination 
image as a mediator between perceived risks and 
revisit intention: A case of post-disaster 
Japan. Tourism Management, 40, 382-393. 
[25] Hasan, M. K., Ismail, A. R., & Islam, M. F. (2017). 
Tourist risk perceptions and revisit intention: A 
critical review of literature. Cogent Business & 
Management, 4(1), 1412874. 
[26] Budd, J., Miller, B. S., Manning, E. M., Lampos, V., 
Zhuang, M., Edelstein, M., ... & Short, M. J. (2020). 
Digital technologies in the public-health response to 
COVID-19. Nature medicine, 26(8), 1183-1192. 
[27] Buhalis, D., Leung, D., & Law, R. (2011). 
eTourism: critical information and communication 
technologies for tourism destinations. Destination 
marketing and management: Theories and 
applications, 2011, 205-224. 
[28] Báo điện tử Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ 
nghĩa Việt Nam (2020), Phát triển thị trường du 
lịch sau Covid 19: Biến thách thức thành cơ hội, 
du-lich-sau-COVID19-Bien-thach-thuc-thanh-co-
hoi/411052.vgp, ngày 18/10/2020. 
[29] Hải Nam / VOV.VN (2020), Ra mắt ứng dụng 
Việt Nam an toàn, https://vov.vn/du-lich/ra-mat-
ung-dung-du-lich-viet-nam-an-toan-785138.vov, 
ngày 11/10/2020. 

File đính kèm:

  • pdfgiai_phap_thu_hut_khach_du_lich_quoc_te_quay_tro_lai_thanh_p.pdf