Độ dài miễn dịch của cá tra sau khi tiêm vaccine sốc nhiệt phòng bệnh gan thận mủ

TÓM TẮT Nghiên cứu này được thực hiện nhằm đánh giá độ dài đáp ứng miễn dịch của cá tra sau khi tiêm vaccine bất hoạt sốc nhiệt phòng bệnh do Edwardsiella ictaluri gây ra trên cá tra. Chủng vi khuẩn Edwardsiella ictaluri được phân lập từ mẫu cá tra bệnh gan thận mủ thu tại các tỉnh thuộc Đồng bằng sông Cửu Long. E. ictaluri được nhân sinh khối sau đó được gây sốc nhiệt và sản xuất vaccine bất hoạt. Cá tra với trọng lượng 20-25 gram được gây miễn dịch bằng hai quy trình (1) Tiêm vaccine hai lần và (2) Ngâm vaccine kết hợp với tiêm. Đối với quy trình tiêm vaccine hai lần cá được tiêm vaccine lần nhất với liều 3 x109 CFU/cá và tiêm vaccine lần hai cách lần thứ nhất 14 ngày. Mỗi tháng sau khi tiêm vaccine lần 2, cá được gây nhiễm với E. ictaluri liều 1,5 x 104 CFU/cá. Đối với quy trình ngâm vaccine kết hợp với tiêm được chuẩn bị tương tự chỉ khác là ở quy trình này cá được ngâm vaccine lần 1 với liều 5 x108 CFU/ml trong 30 phút sau đó tiêm vaccine lần thứ hai cách lần ngâm 14 ngày, các bước còn lại tiến hành tương tự quy trình tiêm vaccine 2 lần. Kết quả nghiên cứu cho thấy đối với quy trình tiêm vaccine 2 lần cho hiệu quả kéo dài thời gian miễn dịch tốt hơn so với quy trình ngâm vaccine kết hợp với tiêm. Thời gian hiệu quả của vaccine có thể kéo dài đến 4 tháng với chỉ số RPS từ 40-58%. Có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về tỷ lệ chết của nhóm đối chứng và nhóm được tiêm vaccine (p <>

Độ dài miễn dịch của cá tra sau khi tiêm vaccine sốc nhiệt phòng bệnh gan thận mủ trang 1

Trang 1

Độ dài miễn dịch của cá tra sau khi tiêm vaccine sốc nhiệt phòng bệnh gan thận mủ trang 2

Trang 2

Độ dài miễn dịch của cá tra sau khi tiêm vaccine sốc nhiệt phòng bệnh gan thận mủ trang 3

Trang 3

Độ dài miễn dịch của cá tra sau khi tiêm vaccine sốc nhiệt phòng bệnh gan thận mủ trang 4

Trang 4

Độ dài miễn dịch của cá tra sau khi tiêm vaccine sốc nhiệt phòng bệnh gan thận mủ trang 5

Trang 5

Độ dài miễn dịch của cá tra sau khi tiêm vaccine sốc nhiệt phòng bệnh gan thận mủ trang 6

Trang 6

Độ dài miễn dịch của cá tra sau khi tiêm vaccine sốc nhiệt phòng bệnh gan thận mủ trang 7

Trang 7

Độ dài miễn dịch của cá tra sau khi tiêm vaccine sốc nhiệt phòng bệnh gan thận mủ trang 8

Trang 8

Độ dài miễn dịch của cá tra sau khi tiêm vaccine sốc nhiệt phòng bệnh gan thận mủ trang 9

Trang 9

Độ dài miễn dịch của cá tra sau khi tiêm vaccine sốc nhiệt phòng bệnh gan thận mủ trang 10

Trang 10

Tải về để xem bản đầy đủ

pdf 12 trang xuanhieu 7300
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Độ dài miễn dịch của cá tra sau khi tiêm vaccine sốc nhiệt phòng bệnh gan thận mủ", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Độ dài miễn dịch của cá tra sau khi tiêm vaccine sốc nhiệt phòng bệnh gan thận mủ

Độ dài miễn dịch của cá tra sau khi tiêm vaccine sốc nhiệt phòng bệnh gan thận mủ
g phương pháp vi ngưng kết
Tháng Nghiệm thức Trung bình Log2 (hiệu giá kháng thể)
1 HS (3 x 109 CFU/cá) 8,12 ± 0,63
NHS (3 x 109 CFU/cá) 9,52 ± 1,22
2 HS (3 x 109 CFU/cá) 8,62 ± 0,48
NHS (3 x 109 CFU/cá) 8,12 ± 0,78
3 HS (3 x 109 CFU/cá) 6,72 ± 1,64
NHS (3 x 109 CFU/cá) 6,72 ± 1,77
4 HS (3 x 109 CFU/cá) 5,52 ± 1,13
NHS (3 x 109 CFU/cá) 5,32 ± 1,24
5 HS (3 x 109 CFU/cá) 4,62 ± 1,7
NHS (3 x 109 CFU/cá) 3,72 ± 2,77
6 HS (3 x 109 CFU/cá) 4,88 ± 1,99
NHS (3 x 109 CFU/cá) 5,82 ± 1,5
Đồ thị 1. Tỷ lệ chết cộng dồn sau khi gây nhiễm với E. ictaluri trên cá tra đã được tiêm vaccine 1, 
2 và 3 tháng 
99TAÏP CHÍ NGHEÀ CAÙ SOÂNG CÖÛU LONG - 2 - THAÙNG 11/2013
VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN 2
Đồ thị 2. Tỷ lệ chết cộng dồn sau khi gây nhiễm với E. ictaluri trên cá tra đã được tiêm vaccine 4, 
5 và 6 tháng
3.2. Kết quả thử nghiệm quy trình ngâm 
kết hợp với tiêm vaccine
Kết quả tỷ lệ chết của thí nghiệm từ 1–3 
tháng đối với vaccine HS và NHS được thể 
hiện ở đồ thị 4.3 cho thấy với phương pháp 
kết hợp ngâm và tiêm vaccine hiệu quả các 
nghiệm thức 1 và 2 tháng với tỷ lệ chết trung 
bình vaccine HS dao động trong khoảng 40-
44% và NHS 34- 49%. Tuy nhiên, từ tháng thứ 
4 trở đồ thị tỷ lệ chết tăng cao và gần bằng so 
với nhóm cá đối chứng (đồ thị 4.4). Tỷ lệ RPS 
của vaccine HS ở tháng thứ 1 và thứ 2 trên 
50%, trong khi đó RPS NHS tháng thứ 1 đạt 
56,94% và tháng thứ 2 đạt 46,98%. Tuy nhiên, 
khi xử lý số liệu thống kê không thấy sự khác 
biệt có ý nghĩa về mặt thống kê giữa vaccine 
HS và NHS ở 2 thời điểm trên. Tỷ lệ chết cộng 
dồn bắt đầu tăng dần tử tháng thứ 3 và đạt giá 
trị trên 50% ở cả hai nghiệm thức.
Kết quả tỷ lệ chết của vaccine HS và NHS 
tử 4 - 6 tháng được thể hiện trong đồ thị 4.4. 
Như vậy tỷ lệ chết từ tháng thứ 4 đến tháng thứ 
6 tăng đáng kể so với tháng 1- 3, và tỷ lệ chết 
này gần bằng với tỷ lệ chết của nhóm đối chứng. 
Tỷ lệ chết cộng dồn nghiệm thức HS và NHS 
trong khoảng 74 - 93%, và hệ số RPS nhỏ hơn 
14%. Từ kết quả thí nghiệm cho thấy quy trình 
ngâm kết hợp với tiêm chỉ thấy hiệu quả ở tháng 
thứ 1 và 2. Từ tháng thứ 3 trở đi hiệu quả của 
vaccine giảm dần điều này cho thấy khả năng 
kéo dài thời gian miễn dịch ở quy trình này thấp 
hơn so với quy trình tiêm vaccine 2 lần.
100 TAÏP CHÍ NGHEÀ CAÙ SOÂNG CÖÛU LONG - 2 - THAÙNG 11/2013
VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN 2
Bảng 4. Tỷ lệ chết cộng dồn và tỷ lệ RPS (%) quy trình ngâm kết hợp với tiêm
Nghiệm thức
Số cá chết cộng dồn ở các ngày sau khi tiêm Tỷ lệ chết cộng dồn trung 
bình (%)
RPS (%)
3 ngày 4 ngày 5 ngày 14 ngày
HS 1 tháng 0 5 21 35 40 ± 0,33 50
NHS 1 tháng 0 10 25 31 34,44 ± 5,09 56,94
Đối chứng 1 1 52 70 72 80 ± 6,6
HS 2 tháng 2 26 38 40 44,44 ± 5,09 51,8
NHS 2 tháng 8 30 41 44 48,88 ± 3,84 46,98
Đối chứng 2 48 79 81 83 92,22 ± 1,92
HS 3 tháng 2 29 43 47 52,22 ± 5,09 33,8
NHS 3 tháng 1 31 46 48 53,33 ± 3,33 32,39
Đối chứng 3 18 61 70 71 78,88 ± 5,09
HS 4 tháng 0 55 75 77 85,55 ± 7,69 10,46
NHS 4 tháng 0 59 80 84 93,33 ± 6,67 2,3
Đối chứng 4 5 82 86 86 95,55 ± 3,84
HS 5 tháng 36 62 64 67 74,44 ± 6,9 14,1
NHS 5 tháng 33 63 71 74 82,22 ± 16,4 5,12
Đối chứng 5 67 75 76 78 86,87 ± 8,88
HS 6 tháng 36 70 80 80 88,88 ± 10,18 1,23
NHS 6 tháng 45 74 80 80 88,88 ± 6,9 1,23
Đối chứng 6 46 77 81 81 90 ± 8,8
Kết quả log2 hiệu giá kháng thể ở bảng 4.4 
cho thấy hiệu giá kháng thể cả hai loại vaccine 
HS và NHS sau 14 ngày ngâm có giá trị thấp hơn 
so với quy trình tiêm vaccine 2 lần, có giá trị HS 
là 6,92 ± 0,51 và NHS 6,66 ± 0,48. Tương tự 
như quy trình 2 lần tiêm thì hiệu giá kháng thể 
giảm dần giảm dần trong thời điểm 1-6 tháng. 
Trong đó tháng 1 và tháng thứ 2 hiệu giá kháng 
thể tương đối cao trung bình 8,7-10,22 đối với 
vaccine HS và 9,1-9,8 với vaccine NHS. Giá trị 
hiệu giá kháng thể 1 và 2 tháng đều có sự khác 
biệt đáng kể so với các nghiệm thức còn lại.
Bảng 5. Hiệu giá kháng thể xác định bằng phương pháp vi ngưng kết (quy trình ngâm kết hợp với 
tiêm)
Nghiệm thức
Trung bình Log2 (hiệu giá kháng thể)
14 ngày sau khi ngâm vaccine lần 1 Trước khi công vi khuẩn
HS (3 x 109 CFU/cá) 1 tháng 
HS: 6,92 ± 0,51
NHS: 6,66 ± 0,48
ĐC: 0,0
10,22 ± 1,1
NHS (3 x 109 CFU/cá) 1 tháng 9,8 ± 1,4
HS (3 x 109 CFU/cá) 2 tháng 8,7 ± 1,34
NHS (3 x 109 CFU/cá) 2 tháng 9,1 ± 0,78
HS (3 x 109 CFU/cá) 3 tháng 5,55 ± 2,9
NHS (3 x 109 CFU/cá) 3 tháng 6,08 ± 2,2
HS (3 x 109 CFU/cá) 4 tháng 6,6 ± 1,25
NHS (3 x 109 CFU/cá) 4 tháng 5,4 ± 2,2
HS (3 x 109 CFU/cá) 5 tháng 5,8 ± 0,84
NHS (3 x 109 CFU/cá) 5 tháng 5,9 ± 1,26
HS (3 x 109 CFU/cá) 6 tháng 5,5 ± 2,2
NHS (3 x 109 CFU/cá) 6 tháng 5,08 ± 2,2
101TAÏP CHÍ NGHEÀ CAÙ SOÂNG CÖÛU LONG - 2 - THAÙNG 11/2013
VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN 2
Đồ thị 3. Tỷ lệ chết cộng dồn sau khi gây nhiễm với E. ictaluri trên cá tra đã được ngâm và tiêm 
vaccine 1, 2 và 3 tháng
Đồ thị 4. Tỷ lệ chết cộng dồn sau khi gây nhiễm với E. ictaluri trên cá tra đã được ngâm và tiêm 
vaccine 4, 5 và 6 tháng
IV. THẢO LUẬN
Từ kết quả thí nghiệm cho thấy quy trình 
tiêm vaccine 2 lần cho thời gian kéo dài đáp 
ứng miễn dịch dài hơn so với quy trình ngâm 
kết hợp với tiêm. Có lẽ do tiêm vaccine mỗi cá 
thể cá đều nhận được lượng vaccine trực tiếp 
đồng đều khi tiêm còn đối với ngâm thì việc 
hấp thụ vaccine thông qua da, mang và trạng 
thái cơ thể cá lúc được ngâm vaccine. Chính vì 
vậy hiện tại vaccine thương mại trên cá hồi vẫn 
102 TAÏP CHÍ NGHEÀ CAÙ SOÂNG CÖÛU LONG - 2 - THAÙNG 11/2013
VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN 2
có dạng vaccine tiêm cho từng cá thể mặc dù 
mất nhiều thời gian tiêm vaccine nhưng mang 
lại hiệu quả cao. Đối với quy trình tiêm vaccine 
2 lần cho thấy hiệu quả kéo dài thời gian miễn 
dịch đến 4 tháng. Theo Nguyễn Hữu Thịnh và 
ctv. (2009) khi nghiên cứu nhiều nghiệm thức 
cấp vaccine khác nhau và gây nhiễm sau thời 
gian thí nghiệm là 4 tháng cho thấy đối với các 
nghiệm thức chỉ cho ăn hoặc ngâm vaccine 1 lần 
cho tỷ lệ chết khá cao (80-82%) gần bằng nhóm 
đối chứng không tiêm vaccine (90%). Điều này 
có thể giải thích là hiệu quả của vaccine chỉ kéo 
dài trong khoảng thời gian nhất định. 
Nghiên cứu 2 loại vaccine thương mại 
(AquaVac®ERM và AquaVac®RELERATM) 
phòng bệnh do Yersinia ruckeri gây ra trên cá 
hồi Deshmukh và ctv. (2012) cho thấy RPS sau 
4 và 6 tháng vaccine với AquaVac®ERM là 13,5-
29,5, đối với vaccine AquaVac®RELERATM là 
42,5-52. Nghiên cứu trên vaccine tái tổ hợp 
phòng bệnh do Aeromonas hydrophila gây 
ra trên cá chép Poobalance và ctv. (2010) đã 
thực hiện thí nghiệm tiêm vaccine cho cá, sau 
35 ngày tiến hành thí nghiệm gây nhiễm với 6 
chủng Aeromonas hydrophila có độc lực cao. 
Kết quả RPS từ 56-87% cho thấy loại vaccine 
này đã thành công sử dụng trên cá chép. Kết quả 
thử nghiệm vaccine nhược độc phòng bệnh do 
Flavobacterium columnare gây ra trên cá nheo 
Mỹ cho thấy RPS từ 74-94% (Shoemaker và 
ctv., 2011). Nghiên cứu khác được thực hiện bởi 
Maiti và ctv. (2011). Nhóm tác giả này nghiên 
cứu vaccine tái tổ hợp protein màng phòng bệnh 
do Edwardsiella tarda gây bệnh trên cá chép. 
Kết quả sau khi gây bệnh thực nghiệm cho 
thấy RPS là 54,3%. Nghiên cứu của Nguyễn 
Hữu Thịnh và ctv. (2009) với nhiều công thức 
vaccine khác nhau trong đó kết hợp vaccine 
bằng cách ngâm và cho ăn để phòng bệnh gan 
thận mủ do Edwardsiella tarda gây ra trên cá tra 
cho chỉ số RPS = 47%. Đây là nghiệm thức cho 
thấy có hiệu quả nhất so với các nghiệm thức 
khác. Trong nghiên cứu của nhóm tác giả này 
không thu mẫu máu xác định hiệu giá kháng thể 
mà chỉ so sánh các nghiệm thức vaccine thông 
qua tỷ lệ chết. Ở ngày 48 của thí nghiệm, tiến 
hành gây nhiễm cá tra với E. ictaluri kết quả 
cho thấy tỷ lệ chết thấp nhất ở nhóm ngâm kết 
hợp với cho ăn là 42%, tiếp theo đó là nhóm 
chỉ ngâm vaccine 1 lần (65%) và nhóm cho ăn 
vaccine có tỷ lệ chết 74%. Chỉ số RPS của các 
nhóm nghiệm thức này lần lượt là 52, 25 và 15.
Từ các kết quả nghiên cứu trên cho thấy 
RPS cao hay thấp tùy thuộc vào loại vaccine 
sử dụng và biến động từ 40-90%. Nhìn chung, 
RPS biến động theo từng đối tượng nghiên cứu, 
bản chất của vaccine, tác nhân gây bệnh và cũng 
như khác nhau về các kiểu đưa vaccine vào cơ 
thể cá.
Theo Phạm Công Thành (2010) đối với cá 
chỉ được gây nhiễm một lần thì hiệu giá kháng 
thể giảm đáng kể từ tháng thứ 2 sau khi được 
gây nhiễm với vi khuẩn. Trong nghiên cứu này, 
hiệu giá kháng thể mặc dù giảm theo thời gian 
sau khi tiêm vaccine nhưng mà vẫn còn ở mức 
cao và có khác biệt có ý nghĩa so với cá đối 
chứng không được tiêm vaccine. Log2 hiệu giá 
kháng thể sau khi gây nhiễm với E. ictaluri lần 
thứ nhất đạt cao nhất ở mức 5,1 sau 40 ngày, 
hiệu giá kháng thể giảm dần và hầu như gần 
bằng nhóm đối chứng sau 90 ngày thí nghiệm. 
Kết quả nghiên cứu của nhóm tác giả này cũng 
chưa thấy được mối liên hệ chặt chẽ giữa hiệu 
giá kháng thể và RPS. Nghiên cứu khả năng 
kích thích miễn dịch ở cá tra đối của chủng E. 
ictaluri mang gen chondroitinase đột biến bằng 
cách ngâm, Lê Thượng Khởi (2012) tìm thấy 
hiệu giá kháng thể bắt đầu tăng vào tuần thứ 3 
cho đến tuần thứ 6. Tuy nhiên cao nhất chỉ dao 
động ở mức 4-5. Sự khác biệt so với nghiên cứu 
này có thể do cơ chế hấp thu vaccine bằng cách 
ngâm và tiêm khác nhau cũng dẫn đến khả năng 
kích thích sinh miễn dịch khác nhau.
103TAÏP CHÍ NGHEÀ CAÙ SOÂNG CÖÛU LONG - 2 - THAÙNG 11/2013
VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN 2
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Lê Thượng Khởi, 2012. Xác định khả năng kích 
thích miễn dịch ở cá tra (Pangasianodon 
hypophthalmus) của chủng Edwardsiella ictaluri 
mang gen chondroitinase đột biến. Luận văn Cao 
học Trường Đại Học Cần Thơ.
Phạm Công Thành, 2010. Khảo sát đáp ứng miễn 
dịch của cá Tra (Pangasianodon hypophthalmus) 
nhiễm vi khuẩn Edwardsiella ictaluri. Luận văn 
Cao học trường Đại Học Nông Nông Tp.HCM
Crumlish, M., Dung, T., Turnbull, J., Ngoc, N. and 
Ferguson, H., 2002. Identification of E. ictaruli 
from the diseased freshwater catfish Pangasius 
hypophthalmus Sauvage, cultured in the Mekong 
Delta, Vietnam. Journal of Fish Diseases 25:733-
736.
Deshmukha, S., Raidaa, M.K., Dalsgaardb, I., 
Chettria, J.K., Kaniaa, P.W., Buchmanna, K., 
2012. Comparative protection of two different 
commercial vaccines against Yersinia ruckeri 
serotype O1 and biotype 2 in rainbow trout 
(Oncorhynchus mykiss). Veterinary Immunology 
and Immunopathology 145: 379– 385
Ferguson, H. W., Turnbull, J. F., Shinn, A., Thompson, 
K., Dung, T. T. and Crumlish M., 2001. Bacillary 
necrosis in farmed Pangasius hypophthalmus 
(Sauvage) from the Mekong Delta, Vietnam. 
Journal of Fish Diseases 24:509-513.
Lindquist, S. and Craig, E. A., 1988. The heat shock 
proteins. Annual Review Genetic 22: 631-637.
Maiti, B., Shetty, M., Shekar, M., Karunasagar, 
I., Karunasagar, I., 2011. Recombinant outer 
membrane protein A (OmpA) of Edwardsiella 
tarda, potential vaccine candidate for fish, 
common carp. Microbiological Research 167: 1-7
Plant, J., 2009. A mutation in Thermosensitive Male 
Sterile 1, encoding a heat shock protein with 
DnaJ and PDI domains, leads to thermosensitive 
gametophytic male sterility in Arabidopsis. Mar 
57(5): 870-82
Pockley, A. G., 2003. Heat shock proteins as regulators 
of the immune response. Lancet 362: 469-476. 
Trong nghiên cứu này chúng tôi thử nghiệm 
2 quy trình (1) Tiêm vaccine 2 lần và (2) Ngâm 
vaccine kết hợp với tiêm. Các nghiên cứu 
vaccine trên cá được thực hiện với nhiều quy 
trình và cách đưa vaccine vào cơ thể cá khác 
nhau. Ví dụ như theo nghiên cứu của Nguyễn 
Hữu Thịnh và ctv. (2009) chọn phương pháp 
ngâm kết hợp với cho ăn thức ăn có vaccine 
thử nghiệm phòng bệnh gan thận mủ trên cá tra. 
Shoemaker và ctv. (2011) thử nghiệm vaccine 
phòng bệnh do Flavobacterium columnare gây 
ra trên cá nheo Mỹ bằng cách ngâm vaccine 
nhược độc. Poobalane và ctv. (2010) thử nghiệm 
vaccine trên cá chép bằng cách tiêm vaccine 1 
lần duy nhất sau đó công cường độc đánh giá 
hiệu quả của vaccine. Nghiên cứu khác của 
Deshmukh (2012) trên cá hồi phòng bệnh do 
Yersinia ruckeri bằng các ngâm vaccine. Prid-
geon và ctv. (2011) thử nghiệm vaccine nhược 
độc phòng bệnh do Edwardsiella ictaluri gây ra 
trên cá tra bằng phương pháp ngâm và tiêm vac-
cine một lần
V. KẾT LUẬN
Vaccine bất hoạt sốc nhiệt protein có khả 
năng kích thích miễn dịch và bảo vệ cho cá. Quy 
trình tiêm vaccine 2 lần cho thấy hiệu quả tốt 
hơn so với quy trình ngâm kết hợp với tiêm;
Độ dài miễn dịch của cá tra sau khi tiêm 
hai lần vaccine bất hoạt sốc nhiệt protein phòng 
bệnh gan thận mủ trên cá tra có thể kéo dài trong 
4 tháng, log2 hiệu giá kháng thể trong khoảng 
thời gian này dao động từ 5,52 đến 9,52; 
Quy trình ngâm kết hợp với tiêm chỉ cho 
hiệu quả ở tháng thứ 1 và tháng thứ 2 sau khi 
tiêm vaccine;
Kết quả nghiên cứu cho thấy chưa có sự 
khác biệt có ý nghĩa thống kê về hiệu quả của 
vaccine sốc nhiệt so với vaccine không sốc nhiệt 
mặc dù thực tế từ kết quả các đợt cho thấy có vài 
trường hợp tỷ lệ chết giảm 3-10% ở nhóm sốc 
nhiệt so với nhóm không sốc nhiệt.
104 TAÏP CHÍ NGHEÀ CAÙ SOÂNG CÖÛU LONG - 2 - THAÙNG 11/2013
VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN 2
mortality caused by Edwardsiella ictaluri. Fish & 
Shellfish Immunology 27: 773–776
Yeong, Y. S., Van Damme, E. J. M., Sorgeloos, P., and 
Bossier, P., 2007. Non-lethal heat shock protect 
gnotobiotic Artemia franciscana larvae against 
virulent Vibrios. Fish & Shellfish Immunology 22: 
318-326.
Yeong, Y. S., Pineda, C., MacRae, T. H., Sorgeloos, 
P. and Bossier, P., 2008. Exposure of gnotobiotic 
Artemia franciscana larvae to abiotic stress 
promotes heat shock protein 70 synthesis and 
entăngces resistance to pathogenic Vibrio 
campbellii. Cell Stress Chaperones 13(1): 59-66.
Yeong, Y. S., Dhaene, T., Defoirdt, T., Boon, N., Ma-
cRae, T. H., Sorgeloos, P. and Bossier, P., 2009. 
Ingestion of bacteria overproducing DnaK 
attenuates Vibrio infection of Artemia franciscana 
larvae. Cell Stress Chaperones 14: 603-609.
Pridgeon, J.W., Klesius, P.H., 2011. Development 
of a novobiocin-resistant Edwardsiella ictaluri 
as a novel vaccine in channel catfish (Ictalurus 
punctatus). Vaccine 29: 5631– 5637
Poobalanea, S., Thompsona, K.D., Ardób, L., Verjanc, 
N., Hanc, H-J., Jeney, G., Hironoc, I., Aokic, T., 
Adamsa, A., 2010. Production and efficacy of 
an Aeromonas hydrophila recombinant S-layer 
protein vaccine for fish. Vaccine 28: 3540–3547
Shoemaker, C.A., Klesius, P.H., Drennan, J.D., 
Evans, J.J., 2011. Efficacy of a modified live 
Flavobacterium columnare vaccine in fish. Fish & 
Shellfish Immunology 30: 304-308
Thinh, N.H., Kuob, T.Y., Hung, L.T., Loc, T.H., 
Chen, S.C., Evensen, O., Schuurman, H.J., 
2009. Combined immersion and oral vaccination 
of Vietnamese catfish (Pangasianodon 
hypophthalmus) confers protection against 

File đính kèm:

  • pdfdo_dai_mien_dich_cua_ca_tra_sau_khi_tiem_vaccine_soc_nhiet_p.pdf