Định mức việc thi hành án dân sự đối với chấp hành viên
Trong hoạt động thi hành án dân sự, chấp hành viên có vai trò đặc biệt
quan trọng, mang tính quyết định đến hiệu quả của công tác thi hành án.
Việc hoàn thiện định mức việc thi hành án dân sự đối với chấp hành viên
còn là một trong những cơ sở để các cơ quan quản lý nhà nước phân bổ
chỉ tiêu, nhiệm vụ thi hành án dân sự hàng năm phù hợp với yêu cầu của
thực tiễn; mức độ hoàn thành chỉ tiêu thi hành án dân sự cũng là một
trong những tiêu chí đánh giá mức độ hoàn thành nhiệm vụ và xếp loại
công chức hàng năm đối với chấp hành viên. Do đó, hoàn thiện các quy
định của pháp luật về định mức phân công công việc phù hợp, khoa học
cho chấp hành viên sẽ đảm bảo việc phân công công việc hợp lý, tăng
tính chủ động của chấp hành viên trong công việc, từ đó góp phần nâng
cao hiệu quả công tác thi hành án dân sự.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Tóm tắt nội dung tài liệu: Định mức việc thi hành án dân sự đối với chấp hành viên
là 9.288 biên chế13 (trong đó, Tổng cục THADS 175 biên chế; các cơ quan THADS địa phương 9.113 biên chế), giảm 200 biên chế so với năm 2018; năm 2020, số lượng biên chế được phân bổ cho toàn hệ thống THADS là 9.088 biên chế14 (trong đó, Tổng cục THADS 172 biên chế; các cơ quan THADS địa phương 8.916 biên chế), giảm 201 biên chế so với năm 2019. Tình trạng một số cơ quan THADS thiếu biên chế để bố trí công việc theo đề án vị trí việc làm dẫn đến nhiều cơ quan THADS đang chịu áp lực rất lớn do số lượng việc THADS phải thi hành tăng lên nhanh chóng (cả về số việc cũ năm trước chuyển sang và số việc THADS thụ lý mới) với tính chất ngày càng phức tạp hơn và giá trị thi hành lớn, đặc biệt lớn. Trong khi đó, thực hiện Nghị quyết số 39- NQ/TW ngày 17/4/2015 của Bộ Chính trị về tinh giản biên chế và cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức; Nghị quyết số 18-NQ/ TW ngày 25/10/2017 của Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Khóa XII một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, yêu cầu hệ thống THADS từ năm 2016 đến năm 2021 phải cắt giảm 10% biên chế so với năm 2015. Năm 2015, toàn hệ thống THADS được giao 9.957 biên chế, đến năm 2020, được giao 9.088 biên chế, đã giảm 869 biên chế so với năm 2015. Riêng trong 03 năm từ năm 2018 đến năm 2020, trung bình mỗi năm số biên chế phân bổ cho cả hệ thống THADS giảm 190 biên chế. Việc tinh giản biên chế nói chung cũng ảnh hưởng đến số lượng công việc của chấp hành viên. Theo quy định tại Thông tư số 03/2017/ TT-BTP, chấp hành viên được các thư ký giúp việc trong thực hiện các trình tự, thủ tục trong công tác THADS, thi hành án hành chính (THAHC). Trên thực tế, nhiều chấp hành viên không có thư ký giúp việc, chấp hành viên vừa THỰC TIỄN PHÁP LUẬT Số 03 + 04 (427 + 428) - T2/2021 83 làm nhiệm vụ giải quyết án, vừa làm thêm nhiều công việc hành chính khác như làm các loại báo cáo, hoàn thiện giấy tờ, sổ sách,... dẫn đến quá tải trong công việc, ảnh hưởng đến hiệu quả tổ chức thi hành án. Ba là, cơ cấu tỷ lệ giữa các ngạch chấp hành viên còn chênh lệch khá lớn. Theo quy định tại khoản 1 Điều 17 Luật THADS, chấp hành viên là người được Nhà nước giao nhiệm vụ thi hành các bản án, quyết định theo quy định. Chấp hành viên có ba ngạch là chấp hành viên sơ cấp, chấp hành viên trung cấp và chấp hành viên cao cấp. Tiêu chuẩn, năng lực và kinh nghiệm công tác ứng với mỗi ngạch chấp hành viên khác nhau là khác nhau. Theo quy định của Điều 3 và Điều 5 Thông tư số 03/2017/TT-BTP ngày 05/4/2017 của Bộ Tư pháp quy định chức danh, mã số ngạch và tiêu chuẩn nghiệp vụ các ngạch công chức chuyên ngành THADS, chấp hành viên cao cấp là công chức có chuyên môn nghiệp vụ THADS, THAHC cao nhất, trực tiếp tổ chức thi hành, đôn đốc thi hành những vụ việc THADS, THAHC đặc biệt phức tạp, có liên quan đến các ngành, các cấp, các địa phương hoặc có yếu tố nước ngoài thuộc thẩm quyền của Cục THADS; chấp hành viên trung cấp, là công chức chuyên môn nghiệp vụ THADS, THAHC, trực tiếp tổ chức thi hành, đôn đốc thi hành các vụ việc THADS, THAHC phức tạp, số tiền, tài sản phải thi hành lớn; việc thi hành án liên quan đến nhiều địa phương thuộc thẩm quyền của Cục THADS, Chi cục THADS; chấp hành viên sơ cấp, là công chức chuyên môn nghiệp vụ THADS, THAHC, có trách nhiệm trực tiếp tổ chức THADS, đôn đốc THAHC đối với những vụ việc đơn giản, lượng tiền, tài sản phải thi hành án có giá trị không lớn thuộc thẩm quyền thi hành của Cục THADS, Chi cục THADS. Quy định trên đã thể hiện mối quan hệ giữa các ngạch chấp hành viên với tính chất của việc THADS. Ví dụ, chấp hành viên cao cấp được giao thi hành việc THADS đặc biệt phức tạp, trên phạm vi địa bàn hành chính rộng lớn, việc THADS có yếu tố nước ngoài; chấp hành viên trung cấp được giao thi hành việc THADS phức tạp, giá trị phải thi hành lớn; chấp hành viên sơ cấp được giao thi hành việc THADS đơn giản, giá trị phải thi hành không lớn. Tuy nhiên, cho đến nay chưa có văn bản nào chính thức giải thích khái niệm việc THADS đặc biệt phức tạp, phức tạp, hoặc đơn giản, có giá trị thi hành lớn hoặc không lớn. Hơn nữa, trong quá trình tổ chức thi hành án, tính chất khó thi hành hoặc dễ thi hành đối với mỗi việc THADS lại có thể chuyển hóa lẫn nhau, tùy thuộc vào yếu tố khách quan, thái độ hợp tác hoặc chống đối của đương sự. Trên thực tế, những việc THADS phức tạp, giá trị phải thi hành lớn thường tập trung ở những thành phố lớn, như thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng, nhưng những địa bàn này lại chưa có đủ số lượng ngạch chấp hành viên cao cấp tương ứng với số lượng việc THADS khó khăn, phức tạp. Nhiều Cục THADS vẫn chưa có người đủ điều kiện, tiêu chuẩn để thi tuyển, bổ nhiệm vào ngạch chấp hành viên cao cấp. Mặc dù các tỉnh, thành phố lớn thường có số lượng chấp hành viên đông đảo hơn, nhưng cũng không đủ số lượng chấp hành viên để phân công công việc THADS tương ứng với yêu cầu từng ngạch chấp hành viên, đặc biệt là ngạch chấp hành viên cao cấp. Ngoài ra, với số lượng biên chế và định biên của số lượng chấp hành viên hiện có cũng rất khó để Thủ trưởng các cơ quan THADS phân công công việc theo đúng tiêu chí các ngạch chấp hành viên ứng với tính chất của việc THADS. Các cơ quan THADS cũng không có đủ thông tin để dự báo được trong năm công tác, quý hoặc tháng công tác sẽ có bao nhiêu các loại việc THADS khác nhau phát sinh. Số lượng việc THADS, đặc biệt là việc THADS theo yêu cầu lại còn tùy thuộc vào thời điểm yêu cầu của đương sự mới có căn cứ để ra quyết định thi hành án. Do vậy, để bảo đảm tính ổn định trong hoạt động THADS và kịp thời tổ chức thi hành bản án, quyết định theo đúng trình tự, thủ tục thời gian theo quy định của pháp luật THADS, Thủ trưởng các cơ quan THADS địa phương thường lựa chọn cách phân công công việc cho chấp hành viên theo địa bàn hành chính hơn là theo tính chất của việc THADS, trừ trường hợp việc THADS thực sự rõ ràng là lớn, khó khăn, phức tạp và THỰC TIỄN PHÁP LUẬT 84 Số 03 + 04 (427 + 428) - T2/2021 đơn vị có đủ số lượng ngạch chấp hành viên cao cấp hoặc trung cấp để phân công tổ chức thi hành những loại việc THADS này. Hiện nay, thực tế việc phân công công việc THADS cho chấp hành viên ở các Chi cục THADS chủ yếu phân theo địa bàn hành chính, dựa vào tổng số chấp hành viên của đơn vị và tổng số xã, phường, thị trấn hoặc bình quân số lượng bản án, quyết định trên từng đơn vị hành chính cấp xã để phân công phụ trách địa bàn cho chấp hành viên. Tuy nhiên, tiêu chí dựa vào tính chất phức tạp, khó khăn hoặc đơn giản của mỗi bản án, quyết định hoặc mỗi loại việc THADS để phân công cho phù hợp với từng ngạch chấp hành viên là vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu, tổng kết, đánh giá. Mục đích của việc ban hành tiêu chí để phân công công việc nhằm vừa bảo đảm tính công bằng trong sử dụng lao động, vừa bảo đảm nâng cao hiệu quả hoạt động THADS. 3. Kiến nghị hoàn thiện quy định về định mức công việc đối với chấp hành viên Một là, nghiên cứu quy định “mức trần” công việc đối với mỗi chấp hành viên. Trong quá trình tổ chức thi hành án, pháp luật quy định rất nhiều trình tự, thủ tục yêu cầu chấp hành viên phải thực hiện nhưng vẫn chưa có kết quả đánh giá một cách chính xác, khoa học và cụ thể về khoảng thời gian cần thiết để chấp hành viên thực hiện hiệu quả mỗi trình tự, thủ tục thi hành án. Ngoài ra, khả năng mỗi ngạch chấp hành viên khác nhau (chấp hành viên cao cấp, chấp hành viên trung cấp, chấp hành viên sơ cấp) trung bình mỗi năm thi hành được bao nhiêu việc THADS (việc THADS đơn giản, phức tạp, trọng điểm, điển hình) cũng khác nhau nên cần có sự khảo sát, đánh giá. Khi chưa có các kết quả, đánh giá nêu trên rất khó để quy định “mức trần” cho chấp hành viên một năm phải thực thi bao nhiêu vụ việc thi hành án, qua đó giao chỉ tiêu nhiệm vụ THADS, biên chế cũng như đánh giá mức độ hoàn thành nhiệm vụ và năng lực của chấp hành viên. Mặc dù chưa có 15. Đặng Đình Quyền, Luận án tiến sỹ luật học: “Hiệu quả áp dụng pháp luật trong thi hành án dân sự ở Việt Nam”, Học viện Chính trị-Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh, năm 2012, tr. 154-156. 16. ThS. Đinh Duy Bằng và ThS. Hoàng Thị Thanh Hoa, Phát huy vai trò chủ động của chấp hành viên, góc nhìn từ quyền hạn, https://thads.moj.gov.vn/noidung/tintuc/Lists/NghienCuuTraoDoi/View_Detail.aspx- ?ItemID=908, ngày đăng: 23/10/2018. quy định mức trần nhưng về nguyên tắc, trách nhiệm, quyền lợi, mức lương, phụ cấp của các ngạch chấp hành viên như nhau là ngang nhau, các yêu cầu từ các quy phạm pháp luật phải thực hiện cũng như nhau15. Như vậy, chấp hành viên thi hành 100 việc/năm cũng cơ bản giống như chấp hành viên thi hành cao hơn rất nhiều lần, ví dụ 500, 700, 1000 việc/năm. Số lượng công việc nhiều chắc chắn phải chịu rủi ro nhiều, thời gian thì có hạn không thể kéo dài; trình tự, thủ tục, trách nhiệm pháp lý đã được luật hóa. Mặc dù những sai sót trong quá trình tổ chức thi hành án có thể đó là lỗi vô ý, lỗi do khách quan (ví dụ, số lượng, áp lực công việc nhiều dẫn đến không thể thực hiện được các thủ tục thi hành án đúng thời gian luật định)16. Vậy, cơ chế nào để bảo vệ chấp hành viên khi những rủi ro, những vi phạm đó là do quá tải công việc? Đây cũng chính là một “khoảng trống” trong việc bảo vệ chấp hành viên, bảo vệ tính công bằng, tính hợp lý cũng như đánh giá đúng năng lực, hiệu quả công tác và bảo vệ uy tín, danh dự, nhân phẩm cho chấp hành viên. Do đó, cần có sự tổng hợp, nghiên cứu một cách có hệ thống theo quy định về vị trí việc làm của chấp hành viên, qua đó đánh giá được đúng những công việc mà chấp hành viên phải thực hiện, thời gian và công sức bỏ ra cho mỗi việc THADS. Tăng cường ứng dụng tiến bộ khoa học, kỹ thuật, đặc biệt là những ưu điểm, tiến bộ của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 vào các quy trình, thủ tục THADS, cải cách, đổi mới, tinh gọn quy trình, thủ tục THADS. Từ đó, định lượng được tổng số việc THADS mà mỗi chấp hành viên có thể thực hiện được và hoàn thành tốt trong một năm công tác. Trường hợp phải thực hiện nhiều hơn số lượng bình quân thì có cơ chế, chính sách khuyến khích, động viên tăng lương, phụ cấp trách nhiệm hoặc cơ chế giảm thiểu trách nhiệm, rủi ro cho người thực hiện và trường hợp bằng hoặc ít hơn con số trung bình thì phải yêu cầu trách nhiệm cao hơn, THỰC TIỄN PHÁP LUẬT Số 03 + 04 (427 + 428) - T2/2021 85 Hai là, đổi mới, sắp xếp lại cơ cấu tổ chức của hệ thống THADS. Hệ thống tổ chức bộ máy cơ quan THADS cần được đổi mới, sắp xếp lại theo hướng: sáp nhập những đơn vị có số lượng việc thi hành án nhỏ, ít để giảm sự cồng kềnh của tổ chức bộ máy; ngược lại, cần tăng biên chế nhằm bổ sung đủ cơ cấu vị trí việc làm, bổ sung cho những đơn vị bị cắt giảm nhiều biên chế trong 5 năm qua, đặc biệt là cho những đơn vị có việc THADS tăng cả về số lượng công việc, tính chất phức tạp và giá trị thi hành lớn. Hiện nay, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 101/2020/NĐ-CP ngày 28/8/2020 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 123/2016/ NĐ-CP ngày 01/9/2016 của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ, cơ quan ngang Bộ. Do đó, cần có văn bản thay thế, sửa đổi, bổ sung Quyết định số 61/2014/QĐ-TTg ngày 30/10/2014 của Thủ tướng Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Tổng cục THADS trực thuộc Bộ Tư pháp cho phù hợp với yêu cầu tổ chức, sắp xếp lại cơ cấu tổ chức bộ máy của Tổng cục thuộc Bộ theo quy định mới của Nghị định số 101/2020/NĐ-CP. Ba là, khảo sát thực tiễn tổng số thời gian thực hiện mỗi quy trình thi hành án. Rà soát lại tổng thể thời gian cần thiết để thực hiện quy trình THADS hiệu quả, từ đó điều chỉnh số việc THADS mỗi chấp hành viên phải thi hành hàng năm, hàng tháng để bảo đảm tính khả thi. Trước mắt, cần tiếp tục hoàn thiện các quy định pháp luật về quyền, quyền hạn, trách nhiệm của chấp hành viên để đảm bảo việc áp dụng pháp luật thiết thực, hiệu quả; tách bạch rõ ràng về mặt quy định liên quan đến quyền hạn của chấp hành viên và điều luật quy định về nhiệm vụ, trách nhiệm của chấp hành viên17. Theo đó, quy định xác lập “quyền” đối với chấp hành viên thì chấp hành viên có quyền thực hiện trong mức độ, hạn định mà quy phạm pháp luật cho phép; quy định giao “nhiệm vụ, trách nhiệm” cho chấp hành viên thì buộc chấp hành viên phải tuân theo, thực hiện theo đúng trình tự, thủ tục và trong khoảng thời gian quy định, nếu không thực hiện, thực hiện không 17. Xem thêm: ThS. Đinh Duy Bằng và ThS. Hoàng Thị Thanh Hoa, Phát huy vai trò chủ động của chấp hành viên, góc nhìn từ quyền hạn; tlđd. đúng, không đủ, không kịp thời thì phải chịu trách nhiệm trước pháp luật tùy thuộc vào ý thức trách nhiệm, mức độ lỗi, hậu quả và các nguyên nhân (chủ quan, khách quan). Bốn là, xây dựng chế độ, chính sách làm thêm giờ, ngoài giờ linh hoạt đối với chấp hành viên, đặc biệt là ở những đơn vị có số lượng việc THADS lớn khi cần phải tăng thời gian để giải quyết án ở những đơn vị trọng điểm, nhiều việc thi hành án phải thi hành. Năm là, đổi mới công tác tổ chức cán bộ trong việc nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn nhân lực. Cần chú trọng giải pháp về công tác tổ chức cán bộ như ưu tiên tăng biên chế cho hệ thống THADS, tăng tỷ lệ chấp hành viên trong tổng số biên chế và điều chỉnh hợp lý tương quan tỷ lệ giữa các ngạch chấp hành viên, theo hướng cần tăng số lượng và tỷ lệ ngạch chấp hành viên cao cấp, bảo đảm mỗi Cục THADS có ít nhất từ 01 đến 02 chấp hành viên trở lên phù hợp với tính chất, yêu cầu nhiệm vụ thi hành án; tăng cường công tác biệt phái, luân chuyển, điều động,... một cách hợp lý và phù hợp để chấp hành viên có nhiều cơ hội học hỏi kinh nghiệm, vững vàng hơn về chuyên môn nghiệp vụ; xây dựng chính sách đãi ngộ hợp lý về nơi ở, phụ cấp, nâng lương, nâng ngạch, quy hoạch, ưu tiên trong công tác bổ nhiệm đối với những chấp hành viên được luân chuyển, biệt phái. Sáu là, tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ chấp hành viên. Không thể phủ nhận rằng hiệu quả công tác THADS phụ thuộc cơ bản vào năng lực, chất lượng đội ngũ chấp hành viên, trong khi đó chất lượng đội ngũ chấp hành viên lại phụ thuộc phần nhiều vào công tác đào tạo, bồi dưỡng, tập huấn chuyên môn, nghiệp vụ THADS. Do đó, tăng cường công tác bồi dưỡng, đào tạo cho đội ngũ chấp hành viên và cán bộ THADS để nâng cao năng lực, trình độ chuyên môn, giảm thiểu sai sót trong thực hiện nhiệm vụ là yêu cầu nhiệm vụ thường xuyên, liên tục, đặc biệt trong bối cảnh hệ thống pháp luật vẫn còn hạn chế, mâu thuẫn, bất cập và thường xuyên được sửa đổi, bổ sung
File đính kèm:
- dinh_muc_viec_thi_hanh_an_dan_su_doi_voi_chap_hanh_vien.pdf