Đào tạo theo học chế tín chỉ tại trường Đại học Sư phạm Hà Nội – Thực trạng và giải pháp
Tóm tắt. Phân tích các yếu tố ảnh hưởng tới đào tạo theo học chế tín chỉ trên quan điểm hệ
thống, có sự đối chiếu với đào tạo theo học chế niên chế và học chế học phần. Trên cơ sở
khảo cứu triển khai đào tạo theo tín chỉ tại Trung Quốc và thực tế Việt Nam, đề xuất một
số biện pháp nâng cao chất lượng đào tạo theo học chế tín chỉ.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Bạn đang xem tài liệu "Đào tạo theo học chế tín chỉ tại trường Đại học Sư phạm Hà Nội – Thực trạng và giải pháp", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Đào tạo theo học chế tín chỉ tại trường Đại học Sư phạm Hà Nội – Thực trạng và giải pháp
tích lũy được số tín chỉ và điểm đủ tối thiểu. SV có thể lướt qua nhiều môn, nhưng không hình thành được năng lực vì không hiểu thấu đáo và vận dụng được kiến thức trong tình huống cụ thể. Sự tương tác giữa người dạy và người học trở nên lỏng lẻo. Người dạy gặp khó khăn khi xác định đúng nhu cầu học tập của người học và thực hiện tổ chức dạy học để đáp ứng nhu cầu đó. Việc quản lí gặp nhiều bất lợi liên quan đến việc quản lí giờ tự học của SV, sự chuyển đổi giữa các ngành học của SV. Cuộc cải cách giáo dục tại Trung Quốc năm 1993 khiến đào tạo theo tín chỉ quay trở lại nhưng có nhiều thay đổi: không cho phép tự học vì SV trốn học công khai và không cho phép SV thi cùng lúc với số tín chỉ không giới hạn. Và theo như đánh giá bởi tác giả Phạm Thị Ly, hệ thống mới thực hiện được việc tạo sự chủ động cho người học với mục đích học tập tự thân, và còn thiếu nhiều yếu tố khác như tổ chức quản lí, tư vấn, đánh giá... đối với việc dạy và học. Kết quả là hệ thống đào tạo theo tín chỉ không thực hiện được ý nghĩa đích thực của nó mà chỉ còn là một hệ thống tính đếm tín chỉ nhằm quản lí thời gian học của sinh viên và không thể có tác dụng tích cực về nội dung đào tạo. 2.2.2. Tại Việt Nam Trong quá trình triển khai đào tạo theo tín chỉ tại Việt Nam, tương tự như Trung Quốc, những vấn đề nảy sinh có thể thấy là: (1) Về tư tưởng, triết lí của đào tạo theo tín chỉ chưa được thông suốt dẫn đến cách thực thi còn nhiều lúng túng và chắp vá. Chẳng hạn, ngay từ văn bản pháp quy là Quyết định 43/2007/QĐ-BGD&ĐT [3] và Thông tư 57/2012 sửa đổi bổ sung quy chế đào tạo tín chỉ [2] có một số vấn đề cần lưu ý: quy định buộc thôi học ở điều 16 của quyết định không phù hợp với 15 Nguyễn Hoài Nam nguyên lí tích luỹ kiến thức của đào tạo theo học chế tín chỉ; quy định thời gian tối đa có thể hoàn thành chương trình đào tạo không dựa trên cơ sở khoa học (theo điều 6 mục 3 của quyết định 43/2007/BGD&ĐT, cử nhân là 4 năm + 4 học kì), là đi ngược lại tinh thần dân chủ hoá và đại chúng hoá giáo dục đại học. Để khống chế thời gian hoàn tất chương trình đào tạo của sinh viên, phải dựa trên chu kì thay đổi của chương trình đào tạo chứ không thể dựa trên các quy định cảm tính, tuỳ tiện [1]. (2) Giới giáo chức chưa được quán triệt và bồi dưỡng về triết lí giáo dục và các hình thức tổ chức, phương pháp dạy học theo phương châm “lấy người học làm trung tâm”; Người học chưa được đào tạo, bồi dưỡng quán triệt tư tưởng chủ động trong học tập, tự quản, tự chịu trách nhiệm cá nhân; Vai trò của cố vấn học tập và giáo viên chủ nhiệm còn mờ nhạt (3) Tổ chức quản lí học tập còn nhiều bất cập. Việc chuyển đổi chương trình đào tạo, về thời lượng, nội dung từ mô hình đào tạo niên chế/học phần sang tín chỉ còn thực hiện phần nhiều dựa trên chủ thuyết kinh nghiệm và cắt xén cơ học mà không theo phương pháp thiết kế chương trình khoa học[1, 9]. Việc quy định đồng loạt số tín chỉ cho mọi ngành nghề cần có những khảo cứu thêm để chứng tỏ được tính thuyết phục. Việc xác định các điều kiện ràng buộc, tiên quyết cho học phần cần được thiết kế hợp lí. Bất cập giữa mục đích đánh giá và công cụ đánh giá. Đối với đào tạo theo tín chỉ, cần tổ chức đánh giá thường xuyên theo quá trình. Việc sử dụng công cụ đánh giá, chuyển đổi giữa thang điểm chữ và số gây khó khăn cho công tác quản lí. Quy chế hiện nay tạo thuận lợi cho người học nhưng độ phân biệt trong thang năng lực chưa thật rõ ràng [16]. Quy định cũng tạo ra sự lãng phí lớn trong tổ chức kiểm tra đánh giá cuối môn học với việc “hội chứng” gạch bài, để được học cải thiện. Với những ngành nghề đào tạo có đóng học phí, việc thi lại, học lại đánh vào quyền lợi người học nhưng đối với ngành sư phạm không mất học phí thì việc tổ chức thi lại là một sự lãng phí rất lớn và tạo ra thói vô trách nhiệm của người học. (4) Việc thiết kế các học phần tự chọn không được thực hiện thường xuyên. Các học phần tự chọn còn quá ít nên ý nghĩa của việc tự chọn với người học là không khả thi. Một số học phần tự chọn mang tính hình thức, vì với số lượng SV không đủ đăng kí theo sĩ số được quy định thì cũng không thể theo học được môn tự chọn, đặc biệt đúng với các ngành có ít SV. (5) Cơ sở vật chất phục vụ tín chỉ còn có những bất cập, đặc biệt là hạ tầng CNTT phục vụ đăng kí tín chỉ và quản lí quá trình đào tạo, chủ động của người học. Tình trạng nghẽn mạng còn xảy ra gây bức xúc và hoang mang với SV, vất vả với cố vấn học tập trong những kì đăng kí tín chỉ. Phòng Đào tạo trường ĐHSP Hà Nội đã thực hiện giải pháp phân tải trên 2 máy chủ, có lịch phân chia đăng kí tín chỉ theo ngành, khoa, phần nào đã giảm bớt sự tắc nghẽn do truy vấn. 2.2.3. Thảo luận và đề xuất Như đã phân tích ở trên, để đào tạo theo tín chỉ phát huy được tính hiệu quả và đúng thực chất, một số biện pháp cần lưu ý như sau: - Về mặt quản lí (vĩ mô): kiến nghị với cấp quản lí là Bộ GD&ĐT điều chỉnh lại Quy chế đào tạo theo tín chỉ (Quyết định 43) cho phù hợp đúng với tinh thần của đào tạo tín chỉ và tình hình thực tế. - Cần đồng bộ các giải pháp để hệ thống đào tạo theo tín chỉ được thông suốt, cụ thể: (1) Quán triệt trong cán bộ, giảng viên, quản lí và phục vụ nhà trường về tư tưởng, triết lí của đào tạo theo tín chỉ và sứ mạng, tầm nhìn của nhà trường (cơ sở giáo dục). Xác định chuẩn đầu ra cho chương trình đào tạo, ngành học, môn học. Chuẩn đầu ra phải được xây dựng một cách khoa học, có sự tham vấn của các bên: cơ sở tiếp nhận lao động sau tốt nghiệp, nhà khoa học, cơ sở đào tạo. Chuẩn đầu ra có thể kiểm định được, và có thể điều chỉnh theo chu kì; có sự phù hợp tối đa với chuẩn nghề nghiệp. Cần thiết phải tham khảo các cách tiếp cận hiện đại trên thế giới đang 16 Đào tạo theo học chế tín chỉ tại trường Đại học Sư phạm Hà Nội – thực trạng và giải pháp sử dụng để xây dựng chuẩn đầu ra, trong đó cách tiếp cận CDIO là một ví dụ điển hình (Conceive- Design-Implement-Operate) [8] (2) Xác định rõ vai trò, nhiệm vụ của từng đối tượng trong hệ thống: có quy định và hướng dẫn thực hiện nhiệm vụ. Ngoài sổ tay hiện có cho SV, nhà trường nên ban hành những sổ tay hướng dẫn cho giảng viên, cán bộ quản lí và phục vụ. Giao cho các đơn vị cơ sở (khoa, phòng ban) thực hiện việc bồi dưỡng cán bộ và SV khoa mình theo định kì, hoặc theo đợt để thông suốt về trách nhiệm, quyền hạn, và kĩ thuật thực hiện trong hệ thống. (3) Tổ chức thực hiện: thường xuyên và định kì tổ chức các hội thảo/xê-mi-na cấp bộ môn và cấp khoa cho các đối tượng: (i) giảng viên về thiết kế chương trình, nội dung môn học, phương pháp dạy học theo học chế tín chỉ, nhằm đảm bảo được sự chủ động, tự giác, tự quản và đánh giá đúng SV. Thể hiện rõ nét vai trò hướng dẫn học tập: giảm bớt hình thức thuyết trình, tăng hoạt động tương tác, gợi ý, giải đáp những vấn đề SV không tự tìm hiểu được. Có hình thức thích hợp để đánh giá được sự tự học của SV, thay vì kiểm soát chuyên cần bằng việc điểm danh trên lớp như hiện nay. Thiết kế hoạt động học tập theo cấu trúc: yêu cầu của mô-đun→ các hoạt động học tập → kiểm tra đánh giá, thu nhận phản hồi; (ii) với cán bộ quản lí, phục vụ: nắm vững quy chế, quy trình nghiệp vụ để tư vấn cho SV, đánh giá chính xác quá trình rèn luyện, tu dưỡng của SV, tổ chức các hoạt động tập thể phù hợp và đạt hiệu quả; (iii) với SV: biết và vận dụng phương pháp học tập thích hợp, chủ động nghiên cứu và vận dụng, phát huy những giờ tự học. Thông qua tự học, NCKH để tăng hứng thú với môn học và vận dụng được kiến thức ứng dụng vào thực tế [12]. Tăng cường thu nhận phản hồi từ phía người học và từ thị trường để thiết kế chương trình, môn học, nội dung môn học đáp ứng linh hoạt được yêu cầu. Tổ chức lớp học học phần với sĩ số vừa phải (khoảng 30 SV) để có thể thực hiện các phương pháp dạy học tích cực có hiệu quả. Cần đổi mới phương pháp đánh giá. Về bản chất, đánh giá là một khâu trong cả quá trình nhận thức: cần được diễn ra thường xuyên, liên tục và luôn luôn được điều chỉnh cho phù hợp với quy luật nhận thức. Mục đích của đánh giá chủ yếu là nhằm để giúp SV điều chỉnh họat động học tập của mình, sau đó là mục đích phục vụ cho công tác quản lí (đánh giá, phân hạng, xếp loại...), kể cả phục vụ cho giảng dạy. Vì vậy, cần tổ chức để SV tự kiểm tra kiến thức của mình thông qua nhiều hình thức khác nhau: đánh giá quá trình, đánh giá đồng đẳng, đánh giá ngoài và đánh giá từ giảng viên [11]. Đánh giá cần được điều chỉnh đồng thời về nội dung, về cách thức, về quy mô và cả cách xác định điểm số. (4) Đổi mới chương trình, nội dung kiến thức theo quan điểm thiết kế hệ thống: xác định chuẩn năng lực đầu ra: chuẩn chung, chuẩn theo nhóm ngành, chuẩn theo ngành chuyên biệt → xác định các nhóm học phần tương ứng với các chuẩn: học phần cốt lõi và học phần mở rộng → cụ thể hóa chuẩn cho từng học phần→ xác định mô-đun kiến thức cơ bản→ xác định hình thức kiểm tra, đánh giá, thu nhận phản hồi→ hướng dẫn phương pháp học tập, nghiên cứu. Việc xác định như trên sẽ giảm thiểu tối đa sự chồng chéo giữa các học phần, các chương trình học trong liên ngành, nhóm ngành, giảm bớt chi phí và tăng tính liên thông, tạo điều kiện thuận lợi cho người học trong việc lựa chọn các học phần để học tập. Thiết kế này cũng đảm bảo nội dung cốt lõi của chương trình, đồng thời cho phép linh hoạt xây dựng và bỏ bớt các học phần đáp ứng yêu cầu xã hội. Nghiên cứu thiết kế chương trình theo hướng tiếp cận CDIO theo đặc thù của ngành học/môn học [8]. Giáo trình và tài liệu tham khảo phải đảm bảo tính hệ thống, cập nhật kiến thức và phục vụ đắc lực cho mục tiêu đào tạo, mục tiêu nghề nghiệp của SV. Giáo trình là sự cụ thể hóa ở mức độ nhất định của chương trình đào tạo, có kết hợp hướng dẫn học tập đối với SV. Giáo trình cần tập trung vào những vấn đề chung, mang tính khái quát, định hướng, yêu cầu. . . đối với SV chứ không nên trình bày, chứng minh những quan niệm riêng của tác giả. Giáo trình được kết cấu theo chương, mục, bao gồm những kiến thức cơ bản, những thảo luận, những gợi ý tìm hiểu thêm về 17 Nguyễn Hoài Nam vấn đề nghiên cứu, thông qua danh mục các tài liệu tham khảo cuối chương, mục. . . Bộ môn Phương pháp dạy học cần có những giáo trình hướng dẫn về thiết kế môn học, trong đó nội hàm liên quan tới việc chọn chủ để và hướng dẫn tổ chức dạy học theo chủ đề cho dạy học tích hợp ở phổ thông; hướng dẫn tổ chức và dạy học theo mô-đun ở các trường nghề. (5) Đầu tư cơ sở vật chất, tăng cường hạ tầng và các ứng dụng về CNTT để phục vụ đăng kí và đào tạo theo tín chỉ. Tăng cường bồi dưỡng kĩ năng về CNTT cho mọi đối tượng tham gia trong hệ thống đào tạo. 3. Kết luận Đào tạo theo học chế tín chỉ là xu thế tất yếu của một nền giáo dục đại chúng, hướng tới người học. Mặc dù còn có những điểm cần nghiên cứu kĩ thêm, song những ưu việt về tính linh hoạt, mềm dẻo, thích ứng với nhu cầu của nền kinh tế tri thức là điều không cần phải bàn cãi. Để thực hiện đào tạo theo tín chỉ có hiệu quả, cần thiết phải tiếp cận theo quan điểm hệ thống, từ có những biện pháp thực thi, điều chỉnh và rút kinh nghiệm nhằm nâng cao chất lượng đào tạo. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] Trần Thanh Ái, 2010. Đào tạo theo hệ thống tín chỉ các nguyên lí, thực trạng và giải pháp Kỉ yếu hội thảo khoa học toàn quốc: đổi mới phương pháp giảng dạy đại học theo hệ thống tín chỉ, Số 5, tr.42 – 53 (Hội thảo tại trường ĐH Sài Gòn, 5/2010) [2] Bộ Giáo dục và Đào tạo, 2012. Thông tư sửa đổi, bổ sung một số điều của Quy chế đào tạo đại học, cao đẳng hệ chính quy theo hệ thống tín chỉ (ban hành 57/2012/TT-BGD&ĐT, ngày27/12/2012). [3] Bộ Giáo dục và Đào tạo, 2007. Quy chế đào tạo đại học, cao đẳng hệ chính quy theo hệ thống tín chỉ (ban hành kèm theo Quyết định 43/2007/QĐ-BGD&ĐT, ngày 15/8/2007). [4] Bộ Giáo dục và Đào tạo, 2006. Quy chế đào tạo đại học, cao đẳng hệ chính quy (ban hành kèm theo Quyết định 25/2006/QĐ-BGDĐT, ngày 26/06/2006). [5] Bộ Giáo dục và Đào tạo, 1993. Khung chương trình đào tạo (ban hành kèm theo Quyết định 2677/GD-ĐT ngày 3/12/1993). [6] European Commission/EACEA/Eurydice, 2015. The European Higher Education Area in 2015: Bologna Process Implementation Report. Luxembourg: Publications Office of the European Union. Nguồn: truy cập 20/7/2015 [7] Eli Mazur và Phạm Thị Ly, 2008. Hệ thống đào tạo theo tín chỉ Mỹ và những gợi ý cho cải cách giáo dục đại học Việt Nam. Nguồn: -goi-y-cho-cai-cach-giao-duc-dai-hoc-viet-nam-eli-mazur–pham-thi-ly.html, truy cập 19/7/2015 [8] Võ Thị Ngọc Lan, 2014. Một số kinh nghiệm xây dựng chương trình đào tạo 150 tín chỉ theo hướng tiếp cận CDIO ở trường ĐHSP Kĩ thuật Tp Hồ Chí Minh. Tạp chí khoa học, Trường ĐHSP Tp Hồ Chí Minh. ISSN: 1859-3100, 62, 103-113 [9] Phạm Thị Loan, 2014. Bài học kinh nghiệm qua 4 năm thực hiện đào tạo theo hệ thống tín chỉ tại khoa Giáo dục Mầm non trường Đại học Hải Phòng. Tạp chí khoa học, Trường ĐHSP Tp Hồ Chí Minh. ISSN: 1859-3100, 57, 60-65 [10] Phạm Thị Ly, 2006. Chuyển đổi sang hệ thống đào tạo theo tín chỉ - Kinh nghiệm của Trung Quốc. Nguồn: chi-kinh-nghiem-cua-trung-quoc-pham-thi-ly.html, truy cập 19/7/2015 18 Đào tạo theo học chế tín chỉ tại trường Đại học Sư phạm Hà Nội – thực trạng và giải pháp [11] Nguyen Hoai Nam, 2014. Utilizing the Active and Collaborative Learning Model in the Introductory Physics Course. Journal of Education and Learning. ISSN 1927-5250 (Print) ISSN 1927-5269 (Online), 3, 108-124 [12] Le Xuan Quang, Le Huy Hoang, Vu Dinh Chuan, Nguyen Hoai Nam, Nguyen Thi Tu Anh and Vu Thi Hong Nhung, 2015. Integrated Science, Technology, Engineering and Mathematics (STEM) Education through Active Experience of Designing Technical Toys in Vietnamese Schools. British Journal of Education, Society & Behavioural Science. ISSN: 2278-0998, 11 (2), 1-12. [13] Lâm Quang Thiệp, 2006. Về việc áp dụng học chế tín chỉ trên thế giới và ở Viêt Nam. Kỉ yếu Hội thảo “Xây dựng Chương trình đào tạo theo tín chỉ có sử dụng Internet” (Viện Nghiên cứu Giáo dục, 26/05/2006). Nguồn: truy cập 20/7/2015 [14] Hà Dương Tường, 2005. Vài nét về hệ thống tín chỉ đại học châu Âu. Nguồn: truy cập 20/7/2015 [15] Hoàng Văn Vân, 2008. Phương thức đào tạo theo tín chỉ: lịch sử, bản chất, và những hàm ý cho phương pháp giảng dạy - học ở bậc đại học. Nguồn: ban-chat-va-nhung-ham-y-cho-phuong-phap-giang-day-hoc-o-bac-dai-hoc-hoang-van-van .html, truy cập 20/7/2015 [16] Thúy Vinh, 2012. Đào tạo tín chỉ: Vẫn lo chất lượng đầu ra. Nguồn: 1214102925903.htm, truy cập 20/7/2015 [17] Wiki, 2015. Giáo dục mở. Nguồn: https://vi.wikipedia.org/wiki/Giáo_dục_mở, truy cập 20/7/15 ABSTRACT Credit-based training system at Hanoi National University of Education - current situation and solutions Factors affecting the training credit system are analysed according to systematic view and are compared with the yearly training system and the module training system. A number of measures to improve the quality of the training credit system are proposed based on research in China and Vietnam. Keywords: Credit-based training system, capacity development, credit training. 19
File đính kèm:
- dao_tao_theo_hoc_che_tin_chi_tai_truong_dai_hoc_su_pham_ha_n.pdf