Đánh giá khả năng ảnh hưởng của tảo đối với bệnh hoại tử gan tụy cấp tính (AHPND) ở giai đoạn ương
TÓM TẮT
Mục đích của thí nghiệm này là nhằm đánh giá khả năng ảnh hưởng của tảo đến phát sinh bệnh hoại
tử gan tụy cấp tính (AHPND) trên tôm ở giai đoạn ương. Bố trí 4 nghiệm thức ương con giống tôm
thẻ chân trắng (Litopenaeus vannamei) từ trại sản xuất của công ty BIM trong nguồn nước tự nhiên
hoặc xử lý trong điều kiện trong nhà và ngoài trời. Thời gian theo dõi thí nghiệm ương là 30 ngày.
Thu mẫu nước được thực hiện trong suốt thời gian ương, ngoài việc phân tích định tính và định
lượng tảo 3 ngày/lần, các chỉ tiêu thủy lý hóa như pH, nhiệt độ, độ mặn, độ kiềm, ammonia, nitrit
cũng được kiểm tra. Mẫu tôm cũng được thu định kỳ 3 ngày/lần để kiểm tra bằng phương pháp mô
học. Kết quả cho thấy số lượng loài cũng như mật độ tảo của các bể nuôi ngoài trời cao hơn trong
nhà và mật độ tảo của nước được xử lý cao hơn nước ao. Sau 16 ngày ương tôm, mật độ tảo silic
chiếm ưu thế đã bị thay thế bởi thành phần tảo lam mà chủ yếu là tảo lam dạng sợi đối với các bể
nuôi trong nhà và thành phần tảo lục đối với các bể nuôi ngoài trời. Sự hiện diện của tảo trong quá
trình ương trong bể composite không có liên quan đến việc ghi nhận dấu hiệu bệnh hoại tử gan tụy
cấp tính.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tóm tắt nội dung tài liệu: Đánh giá khả năng ảnh hưởng của tảo đối với bệnh hoại tử gan tụy cấp tính (AHPND) ở giai đoạn ương
AÙNG 6/2014 VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN 2 thâm canh, việc cho ăn các loại thức ăn nhân tạo bị dư thừa và sử dụng phân bón dễ dẫn đến hiện tượng phú dưỡng, là nguyên nhân bùng phát nở hoa của vi tảo, chủ yếu là nhóm tảo lam. Điều này có thể được coi là một trong các yếu tố suy thoái môi trường và có thể gây thiệt hại rất lớn tới các đối tượng và người nuôi tôm. Hội chứng chết sớm hay còn gọi là hội chứng hoại tử gan tụy cấp tính (Acute Hepatopancreatic Necrosis Syndrome - AHPNS) được ghi nhận đầu tiên ở Trung Quốc vào năm 2009 hơn (Panakorn, 2012), đến năm 2011 tình hình bệnh trở nên trầm trọng ghi nhận tại các nước như Malaysia, Thái Lan và Việt Nam. Trước khi tác nhân gây bệnh hoại tử gan tụy chưa được xác định, thì tảo độc được xem là một trong những yếu tố làm phát sinh bệnh hoại tử gan tụy cấp tính. Theo Sturmer và ctv., (1992), Fegan và Clifford (2001), có thể giảm ảnh hưởng của rủi ro do bệnh trong ao nuôi bằng cách ương tôm trong điều kiện sạch không có mầm bệnh sau đó thả vào ao nuôi với cỡ tôm đã lớn nhất định và ở độ tuổi mà hệ thống miễn dịch đã phát triển tốt hơn và từ đó làm gia tăng kháng lại các yếu tố hữu sinh và vô sinh, làm tăng tỷ lệ sống và ổn định sản lượng. Chính vì vậy thí nghiệm ương tôm thẻ chân trắng với sự hiện diện của tảo được thực hiện, nhằm đánh giá khả năng ảnh hưởng của tảo đến phát sinh hội chứng bệnh hoại tử gan tụy cấp tính trên tôm. II. VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP 2.1. Thời gian, địa điểm và bố trí thí nghiệm - Thí nghiệm ương tôm được tiến hành tại trang trại nuôi tôm của Công ty BIM tại huyện Kiên Lương, tỉnh Kiên Giang - Thời gian 01 tháng từ 28/04/2012 đến 28/05/2012 - Hệ thống ương tôm được bố trí trong nhà và ngoài trời như ở bảng 1 với nguồn nước cấp vào bể composite được lấy từ ao ương và ao nuôi và con giống lấy từ trại sản xuất của công ty BIM. Bảng 1. Bố trí thí nghiệm đánh giá vai trò của tảo đối với bệnh hoại tử gan tụy cấp tính Nghiệm thức Mô tả Số bể Số tôm Ghi chú NT1 Nước ao ương – trong nhà 3 2000 Xử lý nước bằng chlorine (30ppm) và BKC (1ppm), bể ương 4,5m3, thức ăn Uni-president NT2 Nước ao nuôi – trong nhà 3 2000 NT3 Nước ao ương – ngoài trời 3 2000 NT4 Nước ao nuôi – ngoài trời 3 2000 2.2. Phương pháp thu và phân tích mẫu - Mẫu hóa lý: Độ mặn, độ kiềm, ammonia, nitrit đo hằng ngày, riêng pH và nhiệt độ đo sáng và chiều. Việc đo mẫu thực hiện trực tiếp bằng testkit tại khu bể thí nghiệm. - Mẫu tảo: thu 3 ngày/lần, gồm mẫu định tính và định lượng và được phân tích trên kính hiển vi quang học theo phương pháp SMEWW 2005 - 10200 – Plankton tại phòng thí nghiệm của trang trại – Công ty BIM - Mẫu tôm: thu mẫu 3 ngày/lần để xác định hội chứng hoại tử gan tụy bằng phương pháp mô học tại phòng thí nghiệm Trung tâm Quan trắc. III. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN 3.1. Kết quả kiểm tra chất lượng nước 3.1.1. Nhiệt độ Vào buổi sáng, nhiệt độ của NT1 và NT2 (trong nhà) dao động trong khoảng 26-290C, trong khi các bể ở ngoài trời thì nhiệt độ cao nhất có thể lên tới 310C. Đến buổi chiều, các bể trong nhà nhiệt độ có tăng thêm 10C đến giá trị cao nhất là 300C thì ở ngoài trời nhiệt độ tăng thêm 20C, đạt giá trị cao nhất là 330C ở NT3 và NT4. 91TAÏP CHÍ NGHEÀ CAÙ SOÂNG CÖÛU LONG - 3 - THAÙNG 6/2014 VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN 2 Có sự chênh lệch nhiệt độ khá rõ rệt và đồng đều giữa các nghiệm thức được bố trí ngoài trời, cao hơn 1-20C so với các nghiệm thức trong nhà. Thêm vào đó, vào những ngày nắng nóng nhiệt độ đo được vào buổi chiều khoảng chênh lệch đó là 30C. Ảnh hưởng của nhiệt độ, ánh sáng trực tiếp và phần chênh lệch nhiệt độ trong ngày cũng ảnh hưởng phần nào đến phát triển của tôm. Hình 1. Diễn biến nhiệt độ trong các bể ương 3.1.2. pH Không có sự biến động đáng kể nào khi so sánh giá trị pH ở 4 nghiệm thức: dao động trong khoảng 8,3 – 8,5 kể cả vào buổi sáng và buổi chiều. Nhìn chung giá trị pH nằm trong khoảng thích hợp cho tôm nuôi phát triển. Hình 2. Diễn biến pH trong các bể ương 3.1.3. Độ mặn Độ mặn dao động trong khoảng 8-10 ‰ ở tất cả 4 nghiệm thức. Tuy nhiên, ở NT4 giá trị thấp nhất có khi ghi nhận là 7‰ là do trong những ngày này (ngày thứ 5 đến ngày thứ 7) trời mưa nhiều làm cho độ mặn giảm xuống. 92 TAÏP CHÍ NGHEÀ CAÙ SOÂNG CÖÛU LONG - 3 - THAÙNG 6/2014 VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN 2 3.1.4. Độ kiềm Độ kiềm các bể nước ao ương của nghiệm thức NT1 và NT3 cao hơn so với các bể nước ao nuôi của nghiệm thức NT2 và NT4, đồng thời độ kiềm cả 4 nghiệm thức đều có xu hướng giảm dần theo thời gian nuôi. Hình 4. Diễn biến độ kiềm trong các bể ương 3.1.5. Ammonia Sự biến động giá trị ammonia cho thấy đây là chỉ tiêu có sự khác biệt tương đối lớn giữa 4 nghiệm thức. Mặc dù 4 nghiệm thức biến thiên không theo quy luật nhất định nhưng cả 4 nghiệm thức đều ghi nhận giá trị ammonia khá cao, trong đó: Hình 3. Diễn biến độ mặn trong các bể ương 93TAÏP CHÍ NGHEÀ CAÙ SOÂNG CÖÛU LONG - 3 - THAÙNG 6/2014 VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN 2 NT1: ammonia cao nhất vào ngày thứ 4-6 với giá trị là 1,0 mg/l NT2: ammonia cao nhất vào ngày thứ 13- 17 với giá trị là 0,7 mg/l NT3: ammonia cao nhất vào ngày thứ 4-6 và ngày thứ 30-31 với giá trị là 0,85 mg/l NT4: ammonia cao nhất vào ngày thứ 29- 30 với giá trị là 1,35 mg/l 3.1.6. Nitrit Tương tự như ammonia, giá trị nitrit cũng có sự biến động rất mạnh và đây là thông số có sự khác biệt đáng kể nhất trong suốt quá trình thực nghiệm. Có thể khẳng định rằng: việc nuôi tôm trong nhà không có ánh nắng mặt trời đã làm cho lượng nitrit rất cao ở NT1 và NT2 (với giá trị nitrit tăng dần và đạt cao nhất là 5,0 mg/l). Hình 5. Diễn biến hàm lượng ammonia trong các bể ương Hình 6. Diễn biến hàm lượng nitrit trong các bể ương Trong khi đó, với các bể ngoài trời (NT3 và NT4) thì giá trị nitrit thấp hơn rất nhiều, thường ghi nhận là hàm lượng nitrit < 1,0 mg/l. Ngưỡng nitrit thích hợp cho nuôi tôm nước lợ là thấp hơn 0,01 mg/l. 94 TAÏP CHÍ NGHEÀ CAÙ SOÂNG CÖÛU LONG - 3 - THAÙNG 6/2014 VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN 2 3.2. Kết quả kiểm tra tảo Số loài tảo của các bể trong nhà ghi nhận được là 36 loài (NT1) và 37 loài (NT2), trong khi thành phần tảo xuất hiện tại các bể ngoài trời phong phú hơn với 46 loài (NT3 và NT4). Ở tất cả các nghiệm thức, lớp tảo silic luôn chiếm ưu thế với các loài chủ yếu như Cyclotella sp1., Navicula sp., Nitzschia closterium và Amphora sp., xếp thứ nhì là tảo lục Oocystis spp., Dictyosphaerium sp., Scenedesmus spp., kế đến là tảo lam Chroococcus giganteus, Dactylococcopsis sp. và Aphanocapsa sp, Oscillatoria spp., tảo giáp Gyrodinium sp., Protoperidinium spp., và 3 lớp tảo chỉ xuất hiện một loài duy nhất là tảo mắt Euglena sp., tảo vàng ánh chỉ thị phèn Dinobryon sertularia và tảo hai lông Cryptomonas sp. Về mặt định lượng, đối với các bể trong nhà NT1 và NT2 mật độ tảo trung bình dao động từ 6.750 cá thể/lít đến 119.633 cá thể/lít, và mật độ tảo trong nước ao nuôi (NT2) thấp hơn trong nước ao ương (NT1) (Hình 7). Trong đó mật độ tảo silic luôn chiếm ưu thế ở giai đoạn 16 ngày ương do sự phát triển của loài Cyclotella sp. Tuy nhiên, 5 đợt thu mẫu tiếp theo mật độ tảo ưu thế lại là lớp tảo lam trong đó chủ yếu là sự phát triển của các loài tảo lam dạng sợi không có lợi về mặt dinh dưỡng cho tôm chiếm từ 80% đến 90% mật độ chung, đặc biệt là loài Oscillatoria sp3. Đồng thời cũng nhận thấy sự phát triển của các loài tảo lam dạng sợi này có tương quan với sự tăng nồng độ nitrit trong bể. Hình 7. Diễn biến mật độ tảo trung bình của các bể trong nhà Mật độ tảo trung bình của các bể ngoài trời (NT3 và NT4) cao hơn so với trong nhà, dao động từ 40.473 cá thể/lít đến 1.213.907 cá thể/ lít (Hình 8). Tương tự các bể trong nhà, mật độ tảo trung bình trong nước ao nuôi (NT4) thấp hơn nước ao ương (NT3). Trong đó, mật độ tảo silic chiếm ưu thế trong thời gian 27.4 đến 7.5.2012 với sự phát triển chủ yếu của các loài như Cyclotella sp1., Nitzschia closterium và Amphora sp., Amphiprora sp., Chaetoceros mullerii và Chaetoceros sp. Tuy nhiên sau đó mật độ tảo này giảm đáng kể chỉ còn dưới 10.000 cá thể/lít vào các đợt thu mẫu cuối. Bên cạnh đó, mật độ của tảo lục thay thế vị trí dẫn đầu , có dao động từ 50% đến 94% mật độ chung. Điều này là do sự phát triển đến mức nở hoa của Chlorella sp., Carteria sp. Oocystis spp., Scenedesmus sp. và Chlorella sp. (Hình 8). Bên cạnh đó, mật độ tảo lam cũng chiếm một tỉ lệ đáng kể từ 2-23% mật độ chung và đạt cao nhất vào đợt 7 là 184.187 cá thể/lít với mật độ chủ yếu từ loài Chroococcus sp. 95TAÏP CHÍ NGHEÀ CAÙ SOÂNG CÖÛU LONG - 3 - THAÙNG 6/2014 VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN 2 Hình 8. Diễn biến mật độ tảo trung bình của các bể ngoài trời Hình 9. Gyrodinium sp. Hình 10. Oscillatoria sp3. 3.3. Kết quả mô học Kết quả kiểm tra mô học đều không phát hiện HPV, WSSV, YHCV và ký sinh trùng. Đồng thời, các mẫu thu được đều không phát hiện dấu hiệu hoại tử gan tụy như trường hợp tôm thu ngoài ao nuôi với bệnh hoại tử gan tụy cấp tính. 3.4. Kết quả kiểm tra tỷ lệ sống và tăng trọng Nhìn chung, tôm nuôi phát triển tốt đến thu hoạch, tuy nhiên có sự khác biệt rõ rệt về tỷ lệ sống và tăng trọng khi ương trong bể ương trong nhà so với ngoài trời. Các bể ương ngoài trời có trọng lượng trung bình từ 1,032-1,058 g/con cao hơn nhiều so với các bể ương trong nhà có trọng lượng trung bình từ 0,472-0,589 g/con (bảng 2). Tôm ở các bể trong nhà có sự phân cỡ lớn. Bên cạnh đó, tỷ lệ sống cũng có sự khác biệt rất lớn, bể ương ngoài trời có tỷ lệ sống từ 68-80% trong khi bể ương trong nhà chỉ từ 20-25%. 96 TAÏP CHÍ NGHEÀ CAÙ SOÂNG CÖÛU LONG - 3 - THAÙNG 6/2014 VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN 2 Bảng 2. Kết quả kiểm tra tỷ lệ sống và tăng trọng tôm ương tại Kiên Giang Nghiệm thức Kí hiệu bể Trọng lượng (g) Chiều dài (mm) Tỷ lệ sống (%) Nước ao ương + trong nhà Bể 1 0,534 40,70 18,7 Bể 2 0,581 43,00 24,1 Bể 3 0,653 44,20 17,9 Trung bình 0,589 ± 0,363 42,63 ± 8,75 20,2 Nước ao nuôi + trong nhà Bể 4 0,538 41,77 14,1 Bể 5 0,432 38,07 37,5 Bể 6 0,446 38,03 22,8 Trung bình 0,472 ± 0,319 39,29 ± 8,48 24,8 Nước ao ương + ngoài trời Bể 7 1,008 52,40 57,1 Bể 8 0,967 51,57 68,5 Bể 9 1,122 54,40 77,3 Trung bình 1,032 ± 0,457 52,79 ± 7,54 67,6 Nước ao nuôi + ngoài trời Bể 10 1,168 55,27 80,7 Bể 11 0,941 51,43 79,2 Bể 12 1,065 52,03 79,6 Trung bình 1,058 ± 0,434 52,91 ± 7,76 79,8 97TAÏP CHÍ NGHEÀ CAÙ SOÂNG CÖÛU LONG - 3 - THAÙNG 6/2014 VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN 2 Một điểm khác biệt nữa được nhận thấy là màu sắc tôm, cụ thể là các bể trong nhà, tôm có màu sáng trong (hình 11 và hình 12), trong khi bể ngoài trời có màu đậm và tối (hình 13 và hình 14). Các bể ngoài trời có ánh sáng và mật độ tảo rất dầy đặc có thể là nguyên nhân tạo nên sự khác biệt. IV. KẾT LUẬN Không phát hiện hoại tử gan tuỵ trong quá trình ương, không có sự khác biệt đáng kể về biến động các yếu tố môi trường đã khảo sát giữa nguồn nước ao ương và nguồn nước ao nuôi, ngoại trừ sự chênh lệnh rất lớn về hàm lượng nitrit giữa nghiệm thức trong nhà và ngoài trời. Các chỉ tiêu chất lượng nước khác đều nằm trong khoảng thích hợp cho tôm nuôi. Nhìn chung, số lượng loài cũng như mật độ tảo của các bể nuôi ngoài trời cao hơn trong nhà và mật độ tảo của bể nước ao ương cao hơn nước ao nuôi. Trong cả 4 nghiệm thức, khoản giai đoạn từ ngày ương 1 cho đến ngày thứ 16, mật độ tảo silic chiếm ưu thế, tuy nhiên sau đó thành phần ưu thế đã thay đổi, đối với các bể nuôi trong nhà là thành phần tảo lam mà chủ yếu là tảo lam dạng sợi và các bể nuôi ngoài trời là thành phần tảo lục. Sự hiện diện của tảo trong nguồn nước tự nhiên hoặc được xử lý trong điều kiện trong nhà hoặc ngoài trời của bể ương không có liên quan đến việc ghi nhận dấu hiệu bệnh hoại tử gan tụy cấp tính. TÀI LIỆU THAM KHẢO FAO/NACA,1994. Annex II-3 PEOPLE’S REPUBLIC OF CHINA, Report on a Regional Study and Workshop on the Environmental Assessment and Management of Aquaculture Development, Fisheries and Aquaculture Department Fegan, D. F., and Clifford, H. C., III, 2001. Health Management for viral diseases in shrimp farms. Pages 168–198 In: Browdy, C. L., and Jory, D. E., editors. The New Wave, Proceedings of the Special Session on Sustainable Shrimp Culture, Aquaculture 2001. World Aquaculture Society, Baton Rouge, Louisiana, USA. Larsen J., Nguyễn N.L., (Eds), 2004. Potentially Toxic Microalgae of Vietnamesewaters. Opera Botanica. Council for Nordic Publication in Botany, 140, 1- 216 pp. Panakorn, S., 2012. Opinion article: more on early mortality syndrome in shrimp. Aqua Culture Asia Pacific, 8 (1): 8-10. Sturmer, L.N., Tzachi, M.S., and Addison, L.L., 1992. Intensification of Penaeid Nursery Systems, p. 321-344. In: Fast, A.W., and Lester, L.J., (Eds). Marine shrimp culture: principles and practices. Developments in aquaculture and fisheries science, volume 23. Elsevier Science Publisher B.V., The Netherlands. 98 TAÏP CHÍ NGHEÀ CAÙ SOÂNG CÖÛU LONG - 3 - THAÙNG 6/2014 VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN 2 ASSESSMENT OF THE POSSIBILITY OF MICROALGAE TO INFLUENCE ON ACUTE HEPATOPANCREATIC NECROSIS DISEASE (AHPND) IN NURSERY STAGE Dang Ngoc Thuy1, Le Hong Phuoc1 ABSTRACT The purpose of this experiment was an assessement of the possibility of microalgae to influence on Acute Hepatopancreatic Necrosis Disease (AHPND) on shrimp in nursery stage. Four treatments were arranged from post larvae (Litopenaeus vannamei) of BIM company in natural or treated water sources in indoor or outdoor conditions. The experiment was carried out in 30 days. During stocking period, samples were analysed qualitative and quantitative microalgae in every 3 days as well as physical and chemical parameters such as pH , temperature, salinity, alkalinity, ammonia, nitrite. Shrimp samples were checked every 3 days/times by histological methods . Results showed that the number of species as well as the density of microalgae in outdoor were higher than indoor and during the first 16 days, density of diatom were dominanted but after replaced by blue-green microalgae, mainly filamentous cyanobacteria for indoor farming and green microalgae compo- nents for outdoor tanks. Moreover, the presence of algae in nursery stage was not related to the clinical signs of Acute Hepatopancreatic Necrosis Disease (AHPND) Keywords: microalgae, AHPND, nursery stage Người phản biện: TS. Nguyễn Văn Hảo Ngày nhận bài: 10/06/2014 Ngày thông qua phản biện: 16/06/2014 Ngày duyệt đăng: 20/6/2014 1 Southern Monitoring Center for Aquaculture Environment and Epidemic, Research Institute for Aquaculture No2 Email: thdolly@yahoo.com
File đính kèm:
- danh_gia_kha_nang_anh_huong_cua_tao_doi_voi_benh_hoai_tu_gan.pdf