Đặc trưng văn hóa vật thể khu vực Tây sông Hậu thời kỳ văn hóa Óc Eo
Kết quả khai quật khảo cổ học ở Việt Nam, Thái Lan, Myanmar cho thấy văn
hóa Óc Eo phân bố trên phạm vi rộng lớn ở Đồng bằng sông Cửu Long (tức hạ
lưu sông Mekong) với mức độ các di chỉ khác nhau. Khu vực Tây sông Hậu
được xem là địa bàn khởi nguồn của văn hóa Óc Eo và đặt nền móng cho sự
hình thành quốc gia Phù Nam sơ khai. Giá trị văn hóa vật thể của cư dân văn
hóa Óc Eo Tây sông Hậu đã góp phần vào sự phát triển của văn hóa Óc Eo và
“đế chế Phù Nam”. Trên cơ sở tổng hợp - phân tích nguồn tư liệu từ các nghiên
cứu đã công bố, bài viết nhận diện những đặc trưng văn hóa vật thể của cư dân
văn hóa Óc Eo trên vùng đất Tây sông Hậu.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Đặc trưng văn hóa vật thể khu vực Tây sông Hậu thời kỳ văn hóa Óc Eo", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Đặc trưng văn hóa vật thể khu vực Tây sông Hậu thời kỳ văn hóa Óc Eo
ạnh Đền (Trăm Phố) ở miệt vũng Óc Eo và các vùng trũng Ô Môn - lầy trũng ven biển tây nam U Minh - Phụng Hiệp như Nhơn Thành (Cần Năm Căn; các gò đất cao xung quanh Thơ) - khu vực quanh đền Vĩnh Hưng đền Vĩnh Hưng (Bạc Liêu) ở tiểu vùng (Bạc Liêu) (Đặng Văn Thắng, 2016: văn hóa thuộc nhóm Sóc Trăng - Bạc 188). Ở vùng Tứ giác Long Xuyên, Liêu - Cà Mau. các điểm sinh hoạt của cư dân cổ đều Về hình thức quần cư thành thị, một nằm ven bờ hoặc gần các đường số trung tâm cư trú lớn đã được hình nước gồm khu di tích Óc Eo - Ba Thê, thành và phát triển trên vùng đất Tây di tích Đá Nổi (Kiên Giang) và Phum sông Hậu như thành thị Ba Thê - Óc Quao (An Giang). Có thể nói, vùng đất Eo, thành Sdachao (Bảy Núi, An Tây sông Hậu thời kỳ văn hóa Óc Eo Giang), Nền Chùa, Cạnh Đền (Kiên có nhiều dạng cư trú ở các “miệt” sinh Giang), Lò Mo, Đá Nổi Phú Hòa (An thái nhân văn (Lương Ninh, 2016: 507; Giang). Khu vực nội thành là nơi ở Phạm Đức Mạnh, 2016: 667). Truyền của vua chúa, quan lại, đạo sĩ, thương thống cư trú trên nhà sàn được phát gia, nghệ nhân, công chức, binh lính; triển và trở thành những đặc trưng nổi khu vực ngoại thành là nơi ở của công bật trong lối sống của cư dân văn hóa nhân và các cư dân (Nhiều tác giả, Óc Eo từ đầu Công nguyên đến thế kỷ 2016b: 279). VI - VII. Vào khoảng giữa thế kỷ VI, mực nước Cư dân cổ Tây sông Hậu có kiểu quần biển đã bắt đầu đột ngột tăng (Đặng cư nông thôn đồng bằng trũng và kiểu Văn Thắng, 2016: 117) và các cuộc quần cư thành thị. Họ chọn các thế chiến tranh giữa các bộ lạc xảy ra đất cao (và các gò, giồng) hoặc dọc (Phan Huy Lê, 2017: 25). Vùng đất theo các đường nước tự nhiên (sông Tây sông Hậu bị ngập kéo dài suốt rạch) và nhân tạo (kinh đào) để làm 600 năm, ngoại trừ khu vực núi Ba nơi cư trú, xây các đền thờ lộ thiên, và Thê, Núi Sam - Bảy Núi. Cư dân tiếp tiến đến khai thác địa bàn canh tác. tục sinh sống tại địa bàn cũ nhưng chỉ Những khu quần cư lớn, cụm cư trú chọn những khu vực cao của vùng được hình thành, có mật độ dân cư trũng như các thế đất gò, vùng đồi núi đông đúc từ thế kỷ III trước Công như khu vực Núi Sam - Bảy Núi (thế TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 6 (262) 2020 75 kỷ từ VIII - IX) và khu vực Óc Eo - Ba Về kiến trúc nhà ở, hình thức nhà ở Thê (từ đầu công nguyên - thế kỷ XII) của cư dân cổ được phân biệt theo và giồng duyên hải ở Sóc Trăng (từ vật liệu làm nhà gồm có nhà gỗ, nhà thế kỷ XI - XII). Do các dấu vết cư trú gạch, nhà lá, nhà ngói, nhà sàn. Cư chỉ phát hiện ở trên các thế đất cao dân đã sử dụng kỹ thuật xây cất nhà ở (Đặng Văn Thắng, 2016: 195) nên thích hợp với địa bàn cư trú như thiết hầu hết những vùng thấp trũng Tây kế về kết cấu, độ chịu lực của ngôi sông Hậu không có dấu tích về sự nhà trên nền đất yếu qua dấu vết chế tiếp tục có mặt của cư dân trong giai tác của cọc gỗ, sàn gỗ, cột gỗ trang trí, đoạn từ thế kỷ VI - XII. Vì thế, phần đầu cọc gỗ (Đặng Văn Thắng, 2016: lớn diện tích đất Tây sông Hậu vẫn là 50, 213). Nhà ở trong thành thị cổ Óc hoang hóa, rất thưa thớt cư dân. Mãi Eo có bố cục hình chữ nhật, hình cho đến khi các tộc người Khmer, vuông. người Việt, người Hoa, người Chăm Về kiến trúc tôn giáo, đền, tháp gồm tiếp tục đến định cư và khẩn hoang có các đền Hindu, điện Phật, đền đài vùng đất mới Tây sông Hậu trong mang ý nghĩa tôn giáo. Phạm vi của hành trình di cư qua nhiều thời kỳ các công trình kiến trúc tôn giáo cũng khác nhau. được cư dân phát triển và xây dựng 3.5. Văn hóa kiến trúc trên những gò đất đắp hay thế đất cao, Vùng đất Tây sông Hậu thời kỳ văn tiêu biểu như cách xếp những hòn đá hóa Óc Eo có các loại hình kiến trúc (lấy từ núi Ba Thê) với cấu trúc đơn như kiến trúc cư trú, kiến trúc đền giản để tạo đền. Những kiến trúc đền điện Hindu - Phật giáo, kiến trúc (bằng đá, gạch) theo kiểu Ấn Độ có thành quách. Công trình kiến trúc khu các chi tiết trang trí, bộ phận của kiến vực Óc Eo - Ba Thê từ thế kỷ I - II có trúc được lắp ghép và kết nối bằng kỹ thể được xây chủ yếu bằng vật liệu thuật chốt mộng; đền có bình đồ hình nhẹ - cột gỗ, mái lợp bằng lá hoặc vuông, nền móng xây bằng gạch, đất ngói hình lá đề. Các kiến trúc tôn giáo sét và đá sỏi. Di tích đền ở khu vực (Gò Cây Trôm, Gò Cây Thị, Gò Giồng Ba Thê - Óc Eo chủ yếu có dạng kiến Xoài, chùa Linh Sơn và lớp dưới kiến trúc tôn giáo của đạo Hindu (Nhiều tác trúc Gò Út Nhanh) vào giai đoạn thế giả, 2016a: 560). Kiến trúc đền thần kỷ III trước Công nguyên - thế kỷ VI Hindu ở khu di tích Óc Eo - Ba Thê có sau Công nguyên là những kiến trúc ba loại đền phổ biến là các đền thần xây dựng bằng gạch; hay các công (Mặt trời Surya, Shiva, Vishnu) với trình kiến trúc ở trung tâm văn hóa Óc dạng đền ở ngoài trời không có mái Eo vào khoảng thế kỷ IV - VI là bằng che (Hypaethral Temple) (Nhiều tác vật liệu nặng (bằng đá, gạch, gạch - giả, 2016b: 332). Mặt khác, các loại đá hỗn hợp) (Nhiều tác giả, 2016a: hình kiến trúc tôn giáo của cư dân từ 715). sau thế kỷ VII được xây với đặc trưng 76 TRẦN TRỌNG LỄ – ĐẶC TRƯNG VĂN HÓA VẬT THỂ KHU VỰC kế thừa truyền thống văn hóa Óc Eo Xuân Diệm (2010), vòng thành cổ Ba đã có từ trước, gồm kiểu đền độc lập, Thê - Óc Eo được tạo nên do đào kinh đền - bàu nước hay Ao Thần (có hình đắp lũy, có tổng diện tích nội thành là chữ nhật) và đền - hào ở Óc Eo - Ba 450ha (3.000m x 1.500m), và thiết kế Thê, Nền Chùa. Hồ chứa nước (Baray) hình chữ nhật. Những đường lộ, có hình vuông, bao quanh bởi bờ kè, đường nước, nhà ở đã được ghi nhận có hai dòng suối chảy vào. Ngoài ra, trong vòng thành; giữa vòng thành có còn có kiến trúc “nhà dài”; có kiến trúc đường nước chạy xuyên qua trục đền thần của văn hóa Óc Eo với cấu giữa theo hướng Đông Bắc - Tây Nam trúc trung tâm hình trụ xây gạch song song với hai cạnh dài để nối liền (Nhiều tác giả, 2016b: 24). với di tích Angkor Borei ở phía bắc, với di tích Takeo (Nền Chùa) ở phía Về kiến trúc thành thị, cư dân văn hóa nam. Từ khoảng thế kỷ III, kinh đô Óc Óc Eo đã xây dựng một số thành thị Eo được cho là được chuyển dời về và cảng thị trên vùng đất Tây sông Angkor Borei (Phan Huy Lê, 2017: Hậu, và kinh thành - cảng thị Ba Thê - 242). Trong khoảng từ năm 540 - 550, Óc Eo là quan trọng nhất. Óc Eo có thành Đặc Mục (kinh đô của Phù Nam) chức năng vừa là cảng thị vừa là kinh thời vua Rudravarman phải chuyển thành của bộ máy điều hành hệ thống xuống phía nam ở thành Na Phật Na cảng thị và thành ấp khác. Nhìn tổng (Naravaranagara, tức là Óc Eo) sau thể, di tích cảng thị Óc Eo rộng 35km2 khi vua Chitrasena của Chân Lạp tiến gồm núi Ba Thê, cánh đồng Óc Eo và đánh (Nguyễn Văn Kim, 2017: 196). một diện tích rộng 500km2 gồm vùng Theo Đặng Văn Thắng, (2016: 204): cảng Óc Eo với vòng ngoài, hệ thống vào năm 630, vua Chân Lập kinh, đường nước trong phạm vi Óc Isanavarman chiếm được thành Na Eo, Nền Chùa, Cạnh Đền. Kiến trúc Phật Na và giao cho những người của toàn khu “cảng thị” Óc Eo là vùng thuộc dòng dõi vua Phù Nam cai trị xứ tứ giác với mỗi cạnh dài trên dưới Chân Lạp này (nay là vùng đất Tây 15km, với xuất phát điểm từ vùng núi sông Hậu). Ba Thê tỏa ra theo hai hướng chính là Ba Thê - Nền Chùa (trục tây - nam) và Thương cảng cổ Óc Eo là một kiểu Ba Thê - Núi Sập (trục tây - đông). cảng phối hợp giữa cảng sông và 2 Thành thị Ba Thê - Óc Eo có khu vực cảng biển, với diện tích là 5km (chiều cư trú của cư dân, thương cảng Óc rộng là 1,5km, chiều dài là 3km). Cảng Eo, kiến trúc tôn giáo (tức đền thờ thị Óc Eo được dòng kinh chính chia thần), các giếng trữ nước ngọt (được làm hai nửa, và mỗi nửa lại chia nhỏ xây viền bằng gạch đá để trữ và giữ hơn thành các ô khoảng 750m x 500m sạch nước ngọt), một công sở thời được bao bọc bởi các dòng kinh cảng thị Óc Eo (di tích kiến trúc Gò vuông vắn. Các bến cảng, dinh thự, Cây Thị). Theo Đào Linh Côn - Lê đền đài và kho chứa hàng hóa cho TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 6 (262) 2020 77 các mùa mậu dịch được xây dựng 4. KẾT LUẬN trên các bến sông (Nhiều tác giả, Khu vực Tây sông Hậu là một không 2016a: 639). gian văn hóa mở của “miệt thấp” gắn 3.6. Văn hóa giao thông với biển và “miệt cao”. Đây cũng là địa Cư dân văn hóa Óc Eo đã khai thác bàn hội tụ của các sắc tộc với sự đa hệ thống sông rạch và kinh đào để dạng về văn hóa, ngôn ngữ. Cộng tạo nên mạng lưới thủy lộ nối liền giữa đồng cư dân văn hóa Óc Eo đã có điều các đô thị, các trung tâm văn hóa và kiện thuận lợi trong giao tiếp văn hóa các kinh thành mới - cũ. Theo các nhà để tạo các nét văn hóa đặc trưng, nghiên cứu, các đường nước nhân trong đó có văn hóa vật thể. Cư dân tạo cổ bao gồm các sông đào, kênh cổ đã phát triển nghề nông trên đất đào và các bến nước được xác định trũng đầm lầy và ngập lũ; sản xuất thủ có chiều dài khoảng trên 200km. công, thương mại biển; trong ẩm thực Những đường nước này nối liền từ có lẽ cư dân này đã chế biến món ăn bờ vịnh vào thương cảng, và từ các với sự kết hợp nguồn nguyên liệu bản thương cảng chính như Óc Eo đến địa và gia vị ngoại nhập; sử dụng khoảng 12 đô thị nằm trong đất liền. trang phục truyền thống bản địa và Cư dân cổ Óc Eo đã đào những con kiểu phục sức từ bên ngoài. Cư dân tụ kinh thoát nước, dẫn nước để làm cư trên các gò đất cao và theo hệ đường giao thông đi lại. Đồng thời, thống đường nước cổ, và có các công họ cũng lợi dụng thủy triều của các trình kiến trúc bằng gỗ, gạch và đá; đường nước cổ ra vào cảng thị Óc chủ yếu di chuyển bằng thuyền trên Eo để di chuyển phương tiện giao các thủy lộ (đường nước nhân tạo, thông đường thủy. sông rạch). Cư dân sống trên sông nước với hệ Có thể nói, đặc trưng văn hóa vật thể thống kinh rạch chằng chịt trên cánh của cư dân văn hóa Óc Eo Tây sông đồng nên họ di chuyển bằng thuyền. Hậu là loại hình văn hóa mưu sinh Cư dân dùng trâu, voi, ngựa để vận nông nghiệp ngập lũ thường niên và chuyển trên đường bộ (Đặng Văn văn hóa mưu sinh ngư nghiệp gần bờ, Thắng, 2016: 223). Từ điều kiện sống với sự hỗ trợ của thủ công nghiệp và trên môi trường sông nước, phương thương mại biển. tiện giao thông chủ yếu là ghe thuyền. CHÚ THÍCH (1) Trong phạm vi Tây sông Hậu, không tính đến 4 huyện, thị xã của tỉnh An Giang là An Phú, Tân Châu, Phú Tân, Chợ Mới. (2) Cà ràng là loại bếp bằng đất nung được tìm thấy ở các di chỉ cư trú khu vực Óc Eo - Ba Thê (An Giang), Nhơn Thạnh (Cần Thơ), và cư dân ngày nay vẫn dùng loại cà ràng có hình dáng tương tự. 78 TRẦN TRỌNG LỄ – ĐẶC TRƯNG VĂN HÓA VẬT THỂ KHU VỰC TÀI LIỆU TRÍCH DẪN 1. Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Sóc Trăng. 2012. Địa chí tỉnh Sóc Trăng. Hà Nội: Nxb. Chính trị Quốc gia - Sự thật. 2. Bùi Chí Hoàng (chủ biên). 2018. Khảo cổ học Nam Bộ thời sơ sử. Hà Nội: Nxb. Khoa học Xã hội. 3. Đặng Văn Thắng (chủ biên). 2016. Các tiểu quốc thuộc Vương quốc Phù Nam ở Nam Bộ. TPHCM: Nxb. Đại học Quốc gia TPHCM. 4. Đặng Văn Thắng (chủ biên). 2017. Các trung tâm tôn giáo thuộc văn hóa Óc Eo ở Nam Bộ. TPHCM: Nxb. Đại học Quốc gia TPHCM. 5. Đào Linh Côn. 2016. “Những khám phá mới về các di tích văn hóa tiền Óc Eo ở vùng tứ giác Long Xuyên từ “phức hợp” gốm”, in trong Nhiều tác giả. 2016a. Di sản văn hóa Óc Eo - Ba Thê tỉnh An Giang. Hà Nội: Nxb. Văn hóa Dân tộc. 6. Hoàng Phê (chủ biên). 2011. Từ điển tiếng Việt. Hà Nội: Nxb. Từ điển Bách khoa. 7. Lê Xuân Diệm. 2016. “Quá trình hình thành châu thổ sông Cửu Long (tiếp cận từ địa - sử học và thư tịch học)”, in trong Nhiều tác giả. 2016a. Di sản văn hóa Óc Eo - Ba Thê tỉnh An Giang. Hà Nội: Nxb. Văn hóa Dân tộc. 8. Lương Ninh. 2016. “„Nước Chí Tôn‟ một quốc gia cổ ở miền Tây sông Hậu”, in trong Nhiều tác giả, 2016b. Giá trị của di sản văn hóa Óc Eo - An Giang trong tiến trình phát triển kinh tế - xã hội. TPHCM: Nxb. Đại học Quốc gia TPHCM. 9. Lương Ninh. 2016. “Về văn hóa Óc Eo”, in trong Nhiều tác giả. 2016a. Di sản văn hóa Óc Eo - Ba Thê tỉnh An Giang. Hà Nội: Nxb. Văn hóa Dân tộc. 10. Lương Ninh. 2017. “Óc Eo - cảng thị quốc tế của Vương quốc Phù Nam”, in trong Trương Thị Kim Chuyên (chủ biên). 2017. Vùng đất Nam Bộ - Điều kiện tự nhiên, môi trường sinh thái - Tập 1. Hà Nội: Nxb. Chính trị Quốc gia - Sự thật. 11. Lý Tùng Hiếu. 2018. Các vùng văn hóa Việt Nam (Giáo trình đại học). Trường Đại học Văn hóa TPHCM. 12. Lý Tùng Hiếu. 2019. Văn hóa Việt Nam: tiếp cận hệ thống - liên ngành. TPHCM: Nxb. Văn hóa - Văn nghệ TPHCM. 13. Nguyễn Thị Hậu - Nguyễn Hữu Giềng. 2016. “Nhà sàn trên cọc gỗ ở Giồng Cát, Giồng Xoài”, in trong Nhiều tác giả. 2016a. Di sản văn hóa Óc Eo - Ba Thê tỉnh An Giang. Hà Nội: Nxb. Văn hóa Dân tộc. 14. Nguyễn Văn Kim (chủ biên). 2017. Vùng đất Nam Bộ - Từ thế kỷ VII đến thế kỷ XVI - Tập 3. Hà Nội: Nxb. Chính trị Quốc gia - Sự thật. 15. Nguyễn Văn Kim. 2016. “Óc Eo - Phù Nam vị thế lịch sử và các mối quan hệ khu vực”, in trong Nhiều tác giả. 2016a. Di sản văn hóa Óc Eo - Ba Thê tỉnh An Giang. Hà Nội: Nxb. Văn hóa Dân tộc. 16. Nhiều tác giả. 2016a. Di sản văn hóa Óc Eo - Ba Thê tỉnh An Giang. Hà Nội: Nxb. Văn hóa Dân tộc. 17. Nhiều tác giả. 2016b. Giá trị của di sản văn hóa Óc Eo - An Giang trong tiến trình phát triển kinh tế - xã hội. TPHCM: Nxb. Đại học Quốc gia TPHCM. TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 6 (262) 2020 79 18. Phạm Đức Mạnh. 2016. “Các phức hệ di tích văn hóa thời tiền sử - cổ sử trên đất An Giang (Việt Nam)”, in trong Nhiều tác giả. 2016a. Di sản văn hóa Óc Eo - Ba Thê tỉnh An Giang. Hà Nội: Nxb. Văn hóa Dân tộc. 19. Phan An. 2016. “Phù Nam - tiếp cận dưới góc độ dân tộc học”, in trong Nhiều tác giả. 2016a. Di sản văn hóa Óc Eo - Ba Thê tỉnh An Giang. Hà Nội: Nxb. Văn hóa Dân tộc. 20. Phan Huy Lê. 2012. Lịch sử và văn hóa Việt Nam - tiếp cận bộ phận. Hà Nội: Nxb. Thế giới. 21. Phan Huy Lê. 2016. “Qua di tích văn hóa Óc Eo và thư tịch cổ - thử nhận diện nước Phù Nam”, in trong Nhiều tác giả. 2016a. Di sản văn hóa Óc Eo - Ba Thê tỉnh An Giang. Hà Nội: Nxb. Văn hóa Dân tộc. 22. Phan Huy Lê (chủ biên). 2017. Vùng đất Nam Bộ - Quá trình hình thành và phát triển - tập 1. Hà Nội: Nxb. Chính trị Quốc gia - Sự thật. 23. Trương Thị Kim Chuyên (chủ biên). 2017. Vùng đất Nam Bộ - Điều kiện tự nhiên, môi trường sinh thái - Tập 1. Hà Nội: Nxb. Chính trị Quốc gia - Sự thật. 24. Võ Văn Sen - Phạm Đức Mạnh. 2016. “Truyền thống văn hóa Óc Eo - hậu Óc Eo - nền tảng vật chất của vương quốc Phù Nam ở cuối nguồn Mê Kông”, in trong Nhiều tác giả, 2016b. Giá trị của di sản văn hóa Óc Eo - An Giang trong tiến trình phát triển kinh tế - xã hội. TPHCM: Nxb. Đại học Quốc gia TPHCM. 25. Vũ Minh Giang - Nguyễn Việt. 2017. Vùng đất Nam Bộ - Từ cội nguồn đến thế kỷ VII - Tập 2. Hà Nội: Nxb. Chính trị Quốc gia - Sự thật. 26. Vũ Văn Quân. 2016. “Vùng đất Nam Bộ thời cổ đại từ tư liệu thư tịch đến khảo cổ học”, in trong Nhiều tác giả. 2016a. Di sản văn hóa Óc Eo - Ba Thê tỉnh An Giang. Hà Nội: Nxb. Văn hóa Dân tộc.
File đính kèm:
- dac_trung_van_hoa_vat_the_khu_vuc_tay_song_hau_thoi_ky_van_h.pdf