Đặc điểm dinh dưỡng và sinh trưởng của cá nâu Scatophagus argus (Linnaeus, 1776) phân bố ở đầm phá Tam Giang

TÓM TẮT

Mục đích của nghiên cứu này là xác định được đặc điểm dinh dưỡng; thành phần thức ăn tự

nhiên; tương quan giữa chiều dài và khối lượng và yếu tố điều kiện của cá Nâu phân bố ở đầm phá

Tam Giang. Tổng số 180 mẫu cá Nâu thu từ tháng 7/2018 đến tháng 6/2019 được chia thành 3 nhóm

theo chiều dài toàn thân lần lượt là <8,5 cm;="" từ="" 8,5–14="" cm="" và="">14 cm. Kết quả phân tích ống tiêu hóa

chỉ ra rằng, cá Nâu thay đổi đặc điểm dinh dưỡng theo giai đoạn phát triển trong vòng đời, nhóm cá có

chiều dài <8,5 cm="" thành="" phần="" thức="" ăn="" là="" động="" vật="" chiếm="" ưu="" thế;="" cá="" ăn="" tạp="" khi="" chúng="" đạt="" kích="" thước="">

8,5–14 cm và thành phần thức ăn là thực vật chiếm ưu thế khi cá đạt kích thước >14cm. Cường độ bắt

mồi ở nhóm cá có chiều dài 8,5–14 cm là cao nhất đến nhóm cá <8,5 cm="" và="">14 cm. Thành phần thức

ăn tự nhiên của cá Nâu gồm 20 loại đại diện cho thuộc 6 nhóm khác nhau (4 ngành tảo, 2 ngành động

vật không xương sống và mùn bã hữu cơ). Trong đó, ngành Tảo Silic - Bacillariophyta chiếm ưu thế

về thành phần. Phương trình tương quan giữa chiều dài và khối lượng của cá Nâu là W = 0,062 x

L2,7446, có hệ số xác định R2 = 0,9686 cho thấy sự tăng trưởng về chiều dài và khối lượng của cá Nâu

có mối tương quan rất chặt chẽ với nhau, giá trị b < 3="" chứng="" tỏ="" đây="" là="" loài="" cá="" sinh="" trưởng="" đồng="">

nghĩa là khi chiều dài tăng thì khối lượng của cá cũng tăng dần theo. Yếu tố điều kiện (K) thay đổi từ

2,97 đến 3,37 và tăng dần theo kích thước cơ thể của cá.

Đặc điểm dinh dưỡng và sinh trưởng của cá nâu Scatophagus argus (Linnaeus, 1776) phân bố ở đầm phá Tam Giang trang 1

Trang 1

Đặc điểm dinh dưỡng và sinh trưởng của cá nâu Scatophagus argus (Linnaeus, 1776) phân bố ở đầm phá Tam Giang trang 2

Trang 2

Đặc điểm dinh dưỡng và sinh trưởng của cá nâu Scatophagus argus (Linnaeus, 1776) phân bố ở đầm phá Tam Giang trang 3

Trang 3

Đặc điểm dinh dưỡng và sinh trưởng của cá nâu Scatophagus argus (Linnaeus, 1776) phân bố ở đầm phá Tam Giang trang 4

Trang 4

Đặc điểm dinh dưỡng và sinh trưởng của cá nâu Scatophagus argus (Linnaeus, 1776) phân bố ở đầm phá Tam Giang trang 5

Trang 5

Đặc điểm dinh dưỡng và sinh trưởng của cá nâu Scatophagus argus (Linnaeus, 1776) phân bố ở đầm phá Tam Giang trang 6

Trang 6

Đặc điểm dinh dưỡng và sinh trưởng của cá nâu Scatophagus argus (Linnaeus, 1776) phân bố ở đầm phá Tam Giang trang 7

Trang 7

Đặc điểm dinh dưỡng và sinh trưởng của cá nâu Scatophagus argus (Linnaeus, 1776) phân bố ở đầm phá Tam Giang trang 8

Trang 8

Đặc điểm dinh dưỡng và sinh trưởng của cá nâu Scatophagus argus (Linnaeus, 1776) phân bố ở đầm phá Tam Giang trang 9

Trang 9

Đặc điểm dinh dưỡng và sinh trưởng của cá nâu Scatophagus argus (Linnaeus, 1776) phân bố ở đầm phá Tam Giang trang 10

Trang 10

pdf 10 trang xuanhieu 21220
Bạn đang xem tài liệu "Đặc điểm dinh dưỡng và sinh trưởng của cá nâu Scatophagus argus (Linnaeus, 1776) phân bố ở đầm phá Tam Giang", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Đặc điểm dinh dưỡng và sinh trưởng của cá nâu Scatophagus argus (Linnaeus, 1776) phân bố ở đầm phá Tam Giang

Đặc điểm dinh dưỡng và sinh trưởng của cá nâu Scatophagus argus (Linnaeus, 1776) phân bố ở đầm phá Tam Giang
 xác định tỷ lệ chiều dài ruột so với 
chiều dài thân cá Nâu là 2,88, kết quả này 
cho thấy cá Nâu thuộc loài cá có tính ăn 
tạp. Theo Nguyễn Xuân Đồng (2012), cá 
Nâu là loài cá có ống tiêu hoá khá dài, chỉ 
số RLG trung bình khoảng 2,3, có nghĩa cá 
Nâu là loài ăn tạp thiên về thực vật. 
Bảng 3. Tương quan giữa chiều dài ruột và chiều dài thân của cá Nâu (n=180) 
Nhóm kích thước (cm) N Chiều dài tổng (Lt) Chiều dài ruột (Lr) RLG (Lr/Lt) 
< 8,5 60 6,7 ± 1,6 19,6 ± 5,4 2,9 ± 0,3 
8,5 - 14 64 11,0 ± 1,7 34,8 ± 6,6 3,2 ± 0,4 
> 14 56 18,3 ± 2,4 60,7 ± 9,6 3,3 ± 0,3 
Hình 1. Hình thái cơ thể và ruột cá Nâu 
HUAF JOURNAL OF AGRICULTURAL SCIENCE & TECHNOLOGY ISSN 2588-1256 Vol. 4(2)-2020:1897-1906 
1902 Nguyễn Văn Huy và cs. 
Như vậy, cá Nâu thay đổi đặc điểm 
dinh dưỡng theo giai đoạn phát triển trong 
vòng đời, lúc còn nhỏ thức ăn chủ yếu là 
động vật, ở giai đoạn tiền trưởngg thành 
chúng ăn tạp và đến giai đoạn trưởng thức 
ăn chủ yếu thực. Kết quả của nghiên cứu 
này là hoàn toàn phù hợp với công bố của 
Sivan và Radhakrishnan (2011) khi cho 
rằng tảo và các mảnh vụn hữu cơ là những 
thành phần chính có trong ruột cá Nâu, đây 
là một loài cá ăn tạp; chỉ sổ RGL thay đổi 
từ 2,14 đến 3,96 (trung bình là 3,1). 
Bảng 4. Chỉ số RLG của cá Nâu ở các nhóm kích thước khảo sát (n=180) 
Nhóm kích thước cá 
(cm) 
Số lượng mẫu 
Tỷ lệ chiều dài ruột so với chiều dài thân (RLG) 
RLG 3 (%) 
< 8,5 60 0 34 (56,7) 26 (43,3) 
8,5 - 14 64 0 25 (39,0) 39 (61,0) 
> 14 56 0 18 (32,1) 38 (68,9) 
3.1.3. Phổ thức ăn và thành phần thức ăn 
của cá Nâu 
Hình 2 cho thấy, phổ thức ăn của cá 
Nâu tập trung chủ yếu vào 4 nhóm, trong 
đó chủ yếu là thực vật nổi và mùn bã hữu 
cơ. Bảng 5 mô tả về sự đa dạng về thành 
phần thức ăn tự nhiên của cá Nâu gồm 20 
loại đại diện cho thuộc 6 nhóm khác nhau 
(4 ngành tảo, 2 ngành động vật không 
xương sống và mùn bã hữu cơ). 
Hình 2. Tần suất xuất hiện các loại thức ăn trong ống tiêu hóa cá Nâu 
Trong đó, ngành Tảo Silic - 
Bacillariophyta chiếm ưu thế về thành 
phần (11 chi), ngành tảo Lam - 
Cyanophyta có 1 chi, Ngành Tảo Lục - 
Bảng 5. Thành phần thức ăn trong ống tiêu hóa cá Nâu 
< 8,5 cm (n=60) 8,5-14 cm (n=64) 
> 14 cm 
(n=56) 
Số mẫu (Ji) Tần suất Số mẫu (Ji) Tần suất Số mẫu (Ji) Tần suất 
Tảo Silic - 
Bacillariophyta 
60 100,0 64 100,0 56 100,0 
Tảo Lục - 
Chlorophyta 
42 69,4 50 78,3 35 62,8 
Tảo Lam - 
Cyanophyta 
28 46,7 24 37,2 12 20,6 
Tảo Đỏ - 
Rhodophyta 
22 36,7 26 40,0 29 51,7 
Động vật nổi 20 32,8 16 25,0 11 20,0 
Động vật đáy 18 29,4 15 23,3 12 21,7 
Mùn bã hữu cơ 60 100,0 64 100,0 56 100,0 
TẠP CHÍ KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ NÔNG NGHIỆP ISSN 2588-1256 Tập 4(2)-2020: 1897-1906 
 1903 
Chlorophyta có 3 chi và ngành Tảo Đỏ - 
Rhodophyta có 2 chi. Trong thành phần 
thức ăn của cá Nâu còn gặp các đại diện 
của 2 ngành động vật không xương sống là 
Giun đốt - Annelida với đại diện là lớp 
Giun nhiều tơ Polychaeta với nhóm Giáp 
xác chân chèo Copepoda đại diện cho 
ngành Chân khớp - Arthropoda.. Thành 
phần thức ăn gồm cả thực vật lẫn động vật 
và mùn bã hữu cơ. Trong số những loại 
thức ăn phân tích được, các ngành tảo có 
tần suất xuất hiện nhiều nhất, đến mùn bã 
hữu cơ, còn động vật có tần suất xuất hiện 
ít hơn. Điều đó cho thấy, cá Nâu thích ăn 
thực vật hơn động vật. 
Hầu hết các nghiên cứu trước đây 
đều khẳng đình rằng cá Nâu loài 
Scatophagus argus có tính ăn tạp (Das và 
cs., 2014; Gandhi, 2002; Hashim và cs., 
2014). Thức ăn của cá Nâu rất đa dạng với 
sự xuất hiện của các mảnh vun hữu cơ, tảo 
đáy, cỏ, giun, rotifer, côn trùng, động vật 
thân mềm, và động vật phù du. Ở giai đoạn 
cá con, thức ăn chủ yếu là động vật phù du, 
thực vật phù du, mảnh vụn hữu cơ 
(Musikasung và cs., 2006). Ở cá trưởng 
thành, Wongchinawit (2007) đã khẳng 
định cá Nâu là một động vật đáy ăn tạp. 
Wongchinawit và Paphavasit (2009) cũng 
đã chỉ ra rằng dạ dày cá Nâu có hình dạng 
chữ U; ở giai đoạn ấu trùng cá ăn chủ yếu 
thực vật phù du cỡ nhỏ; ở giai đoạn tiền 
trưởng thành cá ăn tảo, sinh vật đáy, động 
vật phù du và mảnh vụn hữu cỡ nhỏ; cá 
trưởng thành, thành phần thức ăn trong ống 
tiêu hóa rất đa dạng từ thực vật phù du cỡ 
nhỏ, sinh vật đơn bào, động vật phù du, 
sinh vật đáy và mảnh vụn hữu cơ. Trong 
đó một số nhóm tảo chiếm ưu thế là 
Coscinodiscus sp., Nitzschia orenzianal, 
Lyngbia sp., Closteria sp. và Navicula sp.. 
3.2. Đặc điểm sinh trƣởng của cá Nâu 
3.2.1. Chiều dài và khối lượng của cá Nâu 
theo các nhóm kích thước 
Đặc điểm về chiều dài, khối lượng 
của cá Nâu được mô tả chi tiết qua Bảng 6. 
Từ Bảng 6 cho thấy, kích thước cá 
được khai thác ở đầm phá Tam Giang - 
Cầu Hai dao động trong khoảng 2,7 – 22,0 
cm và tương ứng với khối lượng 2,1 - 
400,4 g. Quần thể cá Nâu được khai thác 
phân ra làm 3 nhóm kích thước. Nhóm 
kích thước < 8,5 cm có chiều dài dao động 
2,7 - 8,4 cm, khối lượng tương ứng từ 2,1 - 
19,1 chiếm 32 %. Nhóm kích thước 8,5 - 
14 cm có số lượng cá thể thu được nhiều 
nhất, chiếm 36,8 % với chiều dài dao động 
từ 8,5 - 13,9 cm, khối lượng tương 
ứng là 19,1 - 89,3g. Nhóm cá cuối cùng có 
kích thước > 14 cm có chiều dài dao động 
14 - 22 cm, ứng với khối lượng từ 2,1 - 
400,4 g, chiếm 31,2 %. 
3.1.3. Tương quan giữa chiều dài - khối 
lượng và yếu tố điều kiện của cá Nâu 
Quá trình sinh trưởng đặc trưng cho 
từng loài cá và thể hiện qua mối tương 
quan giữa chiều dài và khối lượng cơ thể 
cá được trình bày trong Hình 3. 
Bảng 6. Chiều dài và khối lượng của quần thể cá Nâu 
Nhóm kích thước (cm) 
Chiều dài và khối lượng trung bình N 
Ldđ (cm) Ltb Wdđ (g) Wtb n % 
< 8,5 2,7 - 8,4 6,70 2,07 - 19,07 12,15 60 33,33 
8,5 - 14 8,5 - 13,9 10,97 19,09 - 89,27 46,32 64 35,56 
>14 14,1 - 22 18,33 90,86 - 400,35 232,47 56 31,11 
Tổng 2,7 - 22 36,00 2,07 - 400,35 290,94 180 100 
Ldđ: chiều dài dao động; Ltb: chiều dài trung bình; Wdđ: khối lượng dao động; 
Wtb: khối lượng trung bình; N: tổng số mẫu ở mỗi nhóm kích thước 
HUAF JOURNAL OF AGRICULTURAL SCIENCE & TECHNOLOGY ISSN 2588-1256 Vol. 4(2)-2020:1897-1906 
1904 Nguyễn Văn Huy và cs. 
Hình 3. Tương quan giữa chiều dài - khối lượng cá Nâu. 
Phân tích kết quả nghiên cứu chúng 
tôi thu được các thông số của phương trình 
tương quan giữa chiều dài và khối lượng 
của cá Nâu là: là W = 0,062 x L2,7446. Hình 
2 cho thấy sự tăng trưởng về chiều dài và 
khối lượng của cá Nâu có mối tương quan 
chặt chẽ với nhau, được thể hiện rất rõ hệ 
số tương quan R2 = 0,9686 và đây là tương 
quan thuận rất chặt chẽ, giá trị b của 
phương ≠ 3, chứng tỏ đây là loài cá sinh 
trưởng đồng nhất; nghĩa là khi chiều dài 
tăng thì khối lượng của cá cũng tăng dần 
theo. Cụ thể ở nhóm cá có kích thước nhỏ 
nhất (< 8,5 cm) chiều dài cá tăng nhanh, 
khối lượng cá tăng chậm; ở giai đoạn lớn 
hơn (kích thước 8,5 - 14 cm), cá tăng 
trưởng về chiều dài chậm lại, nhưng tăng 
trưởng về khối lượng lại tăng lên. Điều này 
càng thấy rõ hơn ở nhóm kích thước lớn 
nhất (> 14 cm). Theo Hashim và cs. (2017) 
thì sự sinh trưởng của cá Nâu không chỉ 
thay đổi tuỳ thuộc vào giai đoạn phát triển 
trong vòng đời mà còn phụ thuộc vào 
nhiều yếu tố; thậm chí thay đổi theo tháng. 
Điều này có nghĩa là giá trị b của phương 
trình bị ảnh hưởng bởi thức ăn, mùa vụ, 
nhiệt độ, độ mặn và giai đoạn phát triển. 
Yếu tố điều kiện của các nhóm cá 
khác nhau được trình bày trong bảng 7. Hệ 
số điều kiện K tăng dần theo sự tăng dần 
về kích thước của cá. 
Bảng 7. Yếu tố điều kiện (K) của cá Nâu ở các nhóm kích thước 
khảo sát (n=180) 
Nhóm cá (cm) Số mẫu (n) Yếu tố điều kiện (K) 
< 8,5 60 2,97 ± 0,43 
8,5 - 14 64 3,24 ± 0,29 
> 14 56 3,37 ± 0,21 
Perry và cs. (2007) báo cáo rằng cá 
có chỉ số điều kiện thấp là do đã trải qua 
môi trường bất lợi hoặc không đủ dinh 
dưỡng, tăng giá trị K cho thấy sự tích luỹ 
của chất béo sẽ giúp cho quá trình phát 
triển tuyến sinh dục. Das and Bordoloi 
(2014) khuyến cáo phạm vi giá trị K (2,9-
4,8) là phù hợp với cá trưởng thành. Yếu tố 
điều kiện của mẫu cá Nâu trong nghiên 
cứu hiện tại có sự dao động thấp và có giá 
trị K nằm trong phạm vi được khuyến cáo 
là phù hợp, chứng tỏ môi trường sống của 
cá có thành phần thức ăn ổn định (Ndiaye 
và cs., 2015). 
4. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 
4.1. Kết luận 
- Độ no của cá Nâu xuất hiện ở cả 3 
nhóm kích thước, từ bậc 0 đến bậc 4. 
Trong đó độ no bậc 2 cao nhất, chiếm 33,6 
%. Trong 3 nhóm kích thước đã nghiên 
cứu, nhóm có chiều dài từ 8,5 - 14 cm là 
bắt mồi tích cực nhất, trong khi đó cá ở 
nhóm kích thước > 14 cm có cường độ bắt 
mồi thấp. 
- Dựa vào tỷ lệ chiều dài ruột và 
chiều dài thân có thể kết luận rằng đặc 
điểm dinh dưỡng của cá Nâu thay đổi theo 
TẠP CHÍ KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ NÔNG NGHIỆP ISSN 2588-1256 Tập 4(2)-2020: 1897-1906 
 1905 
giai đoạn phát triển, ở giai đoạn cá còn 
nhỏ, cá Nâu là loài ăn tạp, ở giải đoạn cá 
tiền trưởng thành và trưởng thành cá ăn 
thực vật là chủ yếu. 
- Thành phần thức ăn của cá Nâu rất 
đa dạng, thuộc 6 nhóm khác nhau và mùn 
bã hữu cơ. Trong đó chủ yếu là ngành tảo 
Silic có 11 chi, ngành tảo Lam có 1 chi, 
ngành tảo Lục có 3 chi, ngành tảo Đỏ có 2 
chi, ngành giun đốt 1 chi và ngành chân 
khớp 1 chi. Ngoài ra còn có 1 lượng lớn 
mùn bã hữu cơ. 
- Phương trình tương quan giữa 
chiều dài và khối lượng cá Nâu có dạng W 
= 0,062 x L
2,7446, có hệ số tương quan R2 = 
0,9686 cho thấy sự tăng trưởng về chiều 
dài và khối lượng của cá Nâu có mối tương 
quan rất chặt chẽ với nhau, giá trị b < 3, 
chứng tỏ đây là loài cá sinh trưởng đồng 
nhất. 
4.2. Kiến nghị 
Cá Nâu là loài đặc sản của đầm phá 
Tam Giang tỉnh Thừa Thiên Huế, cần có 
nhiều nghiên cứu một cách có hệ thống 
đầy đủ để phát triển sản xuất giống và nuôi 
thương phẩm đối tượng này: 
- Nghiên cứu bổ sung về tương quan 
giữa tuổi cá và kích thước cơ thể để bổ 
sung đầy đủ thông tin về đặc điểm sinh học 
của đối tượng này. 
LỜI CẢM ƠN 
Đây là kết quả của đề tài khoa học 
và công nghệ cấp tỉnh được ngân sách nhà 
nước tỉnh Thừa Thiên Huế đầu tư. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Tài liệu tiếng Việt 
Đặng Ngọc Thanh, Trần Thái Bái và Phạm Văn 
Miên. (1980). Định loại động vật không 
xương sống nước ngọt Bắc Việt Nam. Hà Nội: 
Nhà xuất bản Khoa học và Kỹ thuật. 
Nguyễn Hữu Đại. (1999). Thực vật thủy sinh. 
Thành phố Hồ Chí Minh: Nhà xuất bản: Nông 
nghiệp. 
Nguyễn Thanh Phương, Võ Thanh Tiếm, Trần 
Thị Thanh Hiền, Phạm Trần Nguyên Thảo & 
Lý Văn Khánh. (2005). Nghiên cứu đặc điểm 
sinh học dinh dưỡng và sinh sản của cá Nâu 
(Scatophagus argus, Linnaeus 1976). Tạp chí 
nghiên cứu khoa học, Trường Đại học Cần 
Thơ, (2), 51-59. 
Nguyễn Văn Khôi. (2001). Phân lớp chân mái 
chèo - Copepoda, biển. Động vật chí Việt 
Nam. Hà Nội: Nhà xuất bản Khoa học và Kỹ 
thuật. 
Nguyễn Xuân Đồng. (2012). Đặc điểm sinh học 
cơ bản của cá Nâu (Scatophagus argus, 
Linnaeus 1976) thu thập tại huyện Cần Giờ, 
TP. Hồ Chí Minh. Tạp chí khoa học và phát 
triển, 10(6), 895-901. 
Nikolsky, G. V. (1963). Sinh thái học. Nhà xuất 
bản Đại học - Trung học chuyên nghiệp (Tài 
liệu tiếng Việt do Nguyễn Văn Thái, Trần 
Đình Trọng và Mai Đình Yên dịch). 
Skov, J., Tôn Thất Pháp và Đỗ Thị Bích Lộc 
(2004). Lớp tảo Silic. Opera Botanica,140, 
23-52. 
Tôn Thất Pháp, Mai Văn Phô, Ngô Anh và 
Nguyễn Việt Thắng (2009). Thực vật học. 
Thừa Thiên Huế: Nhà xuất bản Đại Học Huế. 
Vũ Ngọc Út, Trương Quốc Phú và Nguyễn Thị 
Kim Liên. (2019). Thành Phần Loài và Tiềm 
Năng Đối Với Nuôi Thủy Sản Ở Đồng Bằng 
Sông Cửu Long: Thành phố Hồ Chí Minh: 
Nhà xuất bản Nông Nghiệp. 
2. Tài liệu tiếng nƣớc ngoài 
Barry, T. P., & Fast, A. W. (1992). Biology of the 
spotted scat (Scatophagus argus) in the 
Philippines. Asian fisheries science, 5, 163-
179. 
Biswas, S. P. (1993). Manual of methods in fish 
biology. New Delhi: South Asian Publishers, 
Pvt.Ltd. 
Das, P., S. Mandal, A. Khan, Manna, S. K., & 
Ghosh, K. (2014). Distribution of 
extracellular enzyme-producing bacteria in 
the digestive tracts of 4 brackish water fish 
species. Turkish Journal of Zoology, 38, 79-
88. 
Das, M. K., & Bordoloi, S. (2014). Length–
weight relationship and condition factor 
ofLepidocephalichthysgoalparensisPillai and 
Yazdani, 1976 in Assam, India. 
Journal of Applied Ichthyology, (30), 246–247. 
Gandhi, V. (2002). Studies on the food and 
feeding of the cultivable butterfish, 
Scatophagus argus. 
The Marine Biological Association of India, 
44(1-2), 115-121. 
Hashim, M., Abidin, D. A. Z., Das, S. K., & 
Mazlan, A. G. (2017). Length-weight 
relationship, condition factor and TROPH of 
Scatophagus argus in Malaysian coastal 
waters. AACL Bioflux, 10(297-307). 
HUAF JOURNAL OF AGRICULTURAL SCIENCE & TECHNOLOGY ISSN 2588-1256 Vol. 4(2)-2020:1897-1906 
1906 Nguyễn Văn Huy và cs. 
Hashim, M., D. A. Z. Abidin, S. K. Das, & 
Ghaffar., M. A. (2014). Food consumption 
and digestion time estimation of spotted scat, 
Scatophagus argus, using X-radiography 
technique. AIP Conference Proceedings, 
 1614(0), 745-749. 
Lebedev, N. Y. (1946). Elementary populations 
of fish. Zoologichesky Zhurnal, (25), 121-135. 
Musikasung, W., Y. Danayadol, & 
Songsangjinda., P. (2006). Stomach content 
and ecological feature of Scatophagus argus 
(Linnaeus) in Songkhla Lake. Retrieved from 
Coastal Fisheries Research and Development 
Bureau.p30. 
Ndiaye, W., Diouf, K., Samba, O., Ndiaye, P. & 
Panfili, J. 2015. The Length-Weight 
Relationship and Condition Factor of white 
grouper (Epinephelus aeneus, Geoffroy Saint 
Hilaire, 1817) at the south-west coast of 
Senegal, West Africa. International Journal 
of Advanced Research, (3),145-153. 
Sivan, G., & Radhakrishnan, C. K. (2011). Food, 
Feeding Habits and Biochemical Composition 
of Scatophagus argus. Turkish Journal of 
Fisheries and Aquatic Sciences, 11, 603-608. 
Sivan, G., Venketasvaran, K., & Radhakrishnan, 
C. K. (2010). Characterization of biological 
activity of Scatophagus argus venom. 
Toxicon, 56(6), 914-925. 
Doi:
6.014 
Vijayan, D. K., Jayarani, R., Singh, D. K., 
Chatterjee, N. S., Mathew, S., Mohanty, B. P., 
. . . Anandan, R. (2016). Comparative studies 
on nutrient profiling of two deep sea fish 
(Neoepinnula orientalis and Chlorophthalmus 
corniger) and brackish water fish 
(Scatophagus argus). The Journal of Basic & 
Applied Zoology, 77, 41-48. 
Doi:
003 
Wongchinawit, S. (2007). Feeding ecology of 
spotted scat Scatophaqus argus, Linnaeus in 
mangrove forests, Pak Phanang Estuary, 
Nakhon Si Thammarat province. Doctoral’s 
Dissertation, Department of Marine Science, 
Graduate School, Chulalongkorn University, 
Thailand. 
Wongchinawit, S., & Paphavasit, N. (2009). 
Ontogenetic niche shift in the spotted scat, 
Scatophagus argus, in Pak Phanang estuary, 
Nakhon Si Thammarat Province, Thailand. 
The Natural History Journal of Chulalongkorn 
University, 9(2), 143–169. 

File đính kèm:

  • pdfdac_diem_dinh_duong_va_sinh_truong_cua_ca_nau_scatophagus_ar.pdf