Đặc điểm chữ hán và phương pháp dạy học chữ Hán giai đoạn cơ sở
Học tốt chữ Hán từ những con chữ đầu tiên có ý nghĩa then chốt, là tiền đề quan trọng để hình thành và
phát triển năng lực thực hành tiếng tổng hợp của người học ở các giai đoạn tiếp theo. Tuy nhiên, hiệu
quả dạy học chữ Hán hiện nay nhìn chung chưa được cao như mong muốn. Điều này có cả nguyên nhân
khách quan lẫn chủ quan, trong đó không thể không nhắc đến là mảng nghiên cứu lý luận và tổng kết
thực tiễn dạy học chữ Hán chưa được quan tâm và định vị đúng mức. Bài viết này xin đi sâu phân tích đặc
điểm của chữ Hán, đồng thời tổng kết một số phương pháp dạy học chữ Hán dành cho giai đoạn Hán
ngữ cơ sở. Hy vọng có thể bổ sung thêm một số kiến giải hữu ích cho địa hạt nghiên cứu trọng yếu này
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Tóm tắt nội dung tài liệu: Đặc điểm chữ hán và phương pháp dạy học chữ Hán giai đoạn cơ sở
c tạp Theo học giả Châu Kiện (周健) (2007), thì số lượng chữ Hán nhiều, kết cấu phức tạp, nét bút đa dạng là một trong những nguyên nhân khiến chữ Hán khó học. Theo Tô Anh Hà (苏英霞) trong tiếng Hán chỉ tính riêng số lượng chữ giản thể thông dụng cũng đã có khoảng 7000 chữ, với tổng số 75290 nét, bình quân mỗi chữ là 10.75 nét, trong đó các chữ từ 9-11 nét chiếm số lượng nhiều nhất (2272 chữ, khoảng 33%). Nhiều chữ Hán thông dụng có số lượng nét chữ nhiều (VD: 戴 (17 nét), 赢 (17 nét), 警 (19 nét)). Các bộ phận 91KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 3 - 9/2016 NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI v cấu thành chữ bao gồm: 6 nét cơ bản, 25 nét phái sinh, 214 bộ thủ, 560 bộ kiện cơ bản (bộ kiện là bộ phận cấu thành chữ, nó có thể là nét hoặc bộ thủ). Hai chữ Hán có thể phân biệt với nhau thông qua một bộ thủ, một nét chữ, qua cách thức trình bày ngang dọc hoặc qua kích thước trình bày dài ngắn khác nhau. Về kết cấu chỉnh thể, chữ Hán lại được phân thành 2 loại là chữ độc thể (do 1 bộ kiện tạo thành, VD: 本, 重, 大, 里, 女) và chữ hợp thể (do hai bộ kiện trở lên ghép thành, VD: 体, 懂, 休, 理, 妇). Mối liên hệ giữa các nét có thể là song song, giao nhau, nối tiếp nhau. Phương thức kết hợp giữa các các bộ kiện có thể là trên dưới, trái phải, trong ngoài. Chỉ tính riêng cách thức tổ hợp của chữ hình thanh cũng có tới 6 cách, đó là: Trái biểu ý, phải biểu âm (VD: 材, 桐, 评); phải biểu ý, trái biểu âm ( VD: 攻, 鸠, 期); trên biểu ý, dưới biểu âm (VD: 芽, 霜, 竿); dưới biểu ý, trên biểu âm (VD: 盒, 忠, 驾); ngoài biểu ý, trong biểu âm (VD: 阂, 圆, 病); trong biểu ý, ngoài biểu âm (VD: 问, 闷, 辩). Các quy tắc viết chính tả cơ bản của chữ Hán, bao gồm: phẩy trước mác sau (VD: 人, 八, 入); ngang trước sổ sau (VD: 十, 干, 王); trên trước dưới sau (VD: 三, 竟, 音) ; trái trước phải sau (VD: 理, 湖, 谢); ngoài trước trong sau (VD:同, 风, 周); vào nhà trước đóng cửa sau (VD: 国, 圆, 园); giữa trước hai bên sau (VD: 小, 水, 办). Ngoài 7 quy tắc này còn có một số quy tắc bổ sung. Ví dụ, đối với những chữ được vây kín 3 mặt sẽ có thêm các quy tắc như: khuyết bên trên – trong trước ngoài sau (VD: 凶, 幽); khuyết bên phải – trên trước trong sau rồi đến trái và dưới (VD: 巨, 医, 区). Đối với những chữ có nét chấm: những chữ có nét chấm bên trên chính giữa hoặc bên trái thường thì nét chấm viết trước (VD: 六, 义, 门); những chữ có nét chấm bên phải phía trên thường thì nét chấm viết sau (VD: 我, 书, 发); những chữ có nét chấm bên trong thường thì nét chấm viết sau (VD: 叉, 丹, 鸟). Do vậy, có thể nhận thấy phương thức tổ hợp và kết cấu chữ Hán đa dạng, phức tạp hơn rất nhiều lần so với các văn tự chỉ đơn thuần biểu âm. 2. CÁC PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC CHỮ HÁN CƠ BẢN GIAI ĐOẠN CƠ SỞ 2.1. Kết hợp dạy chữ theo nét với bộ kiện, bộ thủ Bản chất của phương pháp này là vừa chú trọng đến quy phạm chính tả, vừa chú trọng tới lý giải ý nghĩa của các bộ phận cấu thành nên chữ, từ đó lý giải ý nghĩa chỉnh thể của chữ. Hệ thống chữ Hán có 214 bộ thủ, người dạy không nhất thiết phải giảng giải ý nghĩa của tất cả 214 bộ thủ này, nhưng cần phải giới thiệu cho người học các bộ thủ cơ bản, thường gặp, như: 十 (thập), 亻 (nhân), 八 (bát ), 力 (lực), 讠(ngôn), 又 (hựu) , 氵(chấm thuỷ), 口 (khẩu), 土 (thổ), 女 (nữ), 山 (sơn), 大 (đại), 扌(thủ) , 心 (tâm), 忄(tâm đứng), 马 (mã), 日 (nhật ), 曰 (viết), 月 (nguyệt ), 木 (mộc), 车 (xa), 火 (hoả), 贝 (bối), 目 (mục), 田 (điền ), 禾 (hoà), 白 (bạch), 立 (lập), 米 (mễ)... Từ đó giúp cho người học hình thành ý thức tìm hiểu, khám phá nội hàm ẩn chứa trong mỗi bộ thủ, mỗi con chữ và hình thành ý thức nhớ chữ, học chữ theo bộ thủ. Về bình diện nét chữ, chữ Hán có thể được tạo bởi các nét cơ bản và nét phái sinh. Việc nhớ tên các nét cơ bản và các nét phái sinh thông dụng là điều bắt buộc đối với người học. Trong bài giảng nhập môn, người dạy cần khái quát cho người học về tính cân đối của chữ Hán, bất luận là chữ một nét hay mấy chục nét cũng đều nằm trọn trong một ô vuông. Ngoài ra cần cung cấp và giảng giải cho người học 6 nét cơ bản (ngang, sổ, phẩy, mác, chấm, hất), một số nét phái sinh thông dụng (ngang gập, ngang móc, sổ gập, sổ móc, sổ hất) và một số bộ thủ cơ bản, qua đó giúp người học hình hành nhận thức tổng quan về chữ Hán. Nét là đơn vị cơ bản nhất, nét cấu thành bộ, bộ cấu thành chữ Hán. Dạy học chữ Hán theo đơn vị bộ thủ là sự kết hợp giảng giải hình thức và ý nghĩa; dạy học theo nét thì chú trọng đến quy phạm chính tả. Dạy học theo nét kết hợp với phân tích, giảng giải bộ kiện, bộ thủ không những không có mâu thuẫn với nhau, mà còn có tác dụng bổ sung, hỗ trợ lẫn nhau, nâng cao hiệu quả của quá trình dạy học chữ Hán. Cũng cần phải nhấn mạnh thêm, ở giai đoạn Hán ngữ cơ sở, nhất là ở những bài giảng đầu tiên, “Giáo viên nêu gương trong việc viết chữ đúng quy tắc” là một trong những nguyên tắc cần được thực hiện triệt để. Viết đúng quy tắc ở đây tập trung ở việc viết chữ cân đối và đúng thứ tự các nét, các bộ kiện. Người dạy chỉn chu trong trình bày từng nét chữ sẽ có tác dụng làm cho người học hình thành tính cẩn thận, tỉ mỉ trong học viết chữ. Ngược lại, nếu như người dạy hay viết ngoáy hoặc viết chữ không cân đối, không chỉn chu sẽ làm cho người học mô phỏng sai, hoặc 92 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 3 - 9/2016 v NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI sao nhãng các quy tắc chính tả chữ Hán, ảnh hưởng tiêu cực tới chất lượng dạy học chữ Hán giai đoạn Hán ngữ cơ sở. 2.2. Kết hợp dạy viết chữ với dạy từ mới, cung cấp phiên âm và giải nghĩa Hán Việt Ngoài mục đích nhớ chữ, thuộc chữ, thì giao tiếp cũng là mục đích quan trọng hàng đầu của dạy học tiếng Hán. Khi người học có khả năng giao tiếp tốt, họ sẽ có sự tự tin trong học viết chữ Hán. Hiện nay, phần lớn các trường ở Việt Nam đều chọn phương án giảng dạy chữ Hán lồng ghép trong bộ môn thực hành tiếng, mà không tách thành bộ môn riêng. Cụ thể là dạy viết chữ Hán được lồng ghép trong phần dạy từ mới, phương án này là khả thi và nó cũng đã cho thấy nhiều ưu điểm nhất định. Tuy vậy, phương pháp này cũng đặt ra yêu cầu rất khắt khe đối với người dạy trong việc xây dựng kế hoạch bài giảng, đó là phải chú ý cân đối giữa truyền thụ kiến thức chữ Hán với kiến thức giao tiếp. Trên thực tế, để giảm bớt gánh nặng, áp lực trong việc học chữ Hán và kích thích năng lực giao tiếp, người dạy có thể kết hợp dạy viết chữ với cung cấp một số từ mới mở rộng dưới dạng phiên âm cho người học, để tạo không khí vui vẻ, tinh thần hứng khởi trong học tập. Ví dụ, bài 8 Giáo trình Hán ngữ 1《苹果多少钱一 斤》(Nửa kg táo bao nhiêu tiền), xuất hiện từ mới “ 苹果” (quả táo), người dạy có thể mở rộng thêm vốn từ cho người học dưới dạng cung cấp phiên âm chữ “Píngguǒ shǒujī” (điện thoại quả táo/Iphone), bởi từ này khá phổ biến trong cuộc sống hiện nay và cũng gây sự hứng thú với giới trẻ. Hoặc cũng có thể tìm những bài hát tiếng Hán có mẫu câu đơn giản, in lời bài hát dưới dạng phiên âm cho người học tập hát trong giờ ôn tập với thời lượng giới hạn nhất định hoặc trong giờ nghỉ giải lao nếu người học cảm thấy hứng thú, qua đó có thể khơi gợi niềm đam mê học tập cho người học. Tuy nhiên, vẫn phải nhấn mạnh thêm, ở giai đoạn Hán ngữ cơ sở, tính mô phạm trong dạy chữ là rất quan trọng. Người dạy có thể cung cấp một khối lượng kiến thức mở rộng dưới dạng phiên âm, nhưng tuyệt đối không được lạm dụng phương thức này. Người dạy cũng có thể kết hợp dạy viết với cung cấp nghĩa Hán-Việt của một số chữ Hán cho người học. Lý giải nghiã Hán-Việt của chữ Hán sẽ giúp người học hiểu chữ sâu hơn, nhớ chữ lâu hơn và phát triển vốn từ nhanh hơn. Cách dạy học này thông qua lợi thế của việc lý giải ý nghĩa những ngữ tố và từ ngữ gốc Hán trong tiếng Việt để lý giải ý nghĩa chữ Hán tốt hơn. Cách dạy học này cũng không phải mới mẻ, mà từ xa xưa đã được ông cha ta đúc rút và vận dụng hiệu quả trong dạy học chữ Hán. Ông cha ta thông qua sử dụng lối văn vần và đối ngẫu để đưa ra những cách giảng giải gần gũi, dễ đọc, dễ nhớ về chữ Hán, ví dụ: “Gia – nhà, quốc – nước, Tiền – trước, hậu – sau, Ngưu – trâu, mã – ngựa” Hoặc là: “Thiên – trời, địa – đất Cử – cất, tồn – còn Tử – con, tôn – cháu Lục – sáu, tam – ba” Phương pháp dạy viết chữ Hán kết hợp với giải thích ý nghĩa Hán-Việt của một số chữ Hán đặt ra yêu cầu rất cao cho người dạy trong việc tìm hiểu nghĩa từ Hán-Việt, để truyền thụ một cách chính xác tới người học. Ở góc độ này, dạy học chữ Hán còn góp phần nâng cao trình độ lý giải ý nghĩa từ ngữ Hán-Việt cho người học. 2.3. Vận dụng các trò chơi trong dạy học chữ Hán Thiết kế và áp dụng một số trò chơi chữ Hán cũng là phương pháp dạy học chữ Hán tích cực theo hướng lấy người học làm trung tâm. Trò chơi chữ Hán nếu được thiết kế và sử dụng hợp lý sẽ giúp nâng cao hiệu quả dạy học chữ Hán. Trong bài giảng giai đoạn Hán ngữ cơ sở, người dạy có thể thiết kế, tổ chức một số trò chơi nhằm tạo ra không khí học tập sôi nổi, vui vẻ, giúp cho người học có thể vượt qua tâm lý ngại ngùng, trở nên linh hoạt và chủ động hơn trong tiếp thu kiến thức. Các trò chơi có thể sử dụng như: viết chữ đã học theo 1 bộ thủ cho trước, trò chơi thêm một nét tạo chữ mới, trò chơi viết những chữ đồng âm khác nghĩa, trò chơi đố vui, trò chơi giải ô chữ Ví dụ, về trò chơi viết chữ Hán đã học theo bộ thủ cho trước: sau khi học xong Quyển 1 của bộ Giáo trình Hán ngữ, khi tiến hành ôn tập kiến thức cũ, giảng viên 93KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 3 - 9/2016 NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI v có thể yêu cầu học viên viết lại các chữ Hán đã học có xuất hiện bộ khẩu (口), vì nó là bộ thủ có tần suất sử dụng tương đối cao và tham gia tổ hợp thành nhiều từ mới nhất ở Quyển 1. Có thể mời 1-2 học viên lên bảng viết, các học viên còn lại ngồi tại chỗ viết đáp án ra giấy, thời gian quy định là 8 phút. Trong lúc học viên viết chữ trên bảng, giảng viên cũng có thể xuống từng bàn để nắm xem trình độ viết chữ của học viên trong lớp thế nào (viết chữ có tuân thủ quy phạm và mỹ quan hay không). Sau 8 phút giảng viên tiến hành chữa và chấm điểm cho học viên trên bảng, các bạn ở dưới theo dõi, nhận xét, bổ sung. Sau đó có thể nắm xem học viên nào trong lớp viết được nhiều chữ nhất; có bao nhiêu học viên viết được trên 10 chữ, bao nhiêu học viên viết được 8-10 chữ, bao nhiêu học viên viết được 5-7 chữ, bao nhiêu học viên viết được dưới 5 chữ qua đó cũng có thể nắm được sơ bộ về khả năng nhớ chữ của từng học viên và mặt bằng chung của lớp để điều chỉnh phương pháp dạy học phù hợp hơn ở giai đoạn tiếp theo. Giảng viên biểu dương và cả lớp vỗ tay khen ngợi học viên viết được nhiều chữ chính xác nhất. Ví dụ, về trò chơi thêm một nét tạo chữ mới: Giảng viên có thể lựa chọn một số chữ Hán viết lên bảng. Trước tiên cho học viên nhận đọc chữ Hán đó, sau đó yêu cầu học viên thêm 1 nét để tạo thành chữ mới có ý nghĩa. Các chữ Hán mà giảng viên có thể lựa chọn để cung cấp cho học viên như: TT Chữ ban đầu Chữ mới 1 人 个,大 2 王 玉 3 头 买 4 牛 生 5 白 百 6 休 体 7 天 夫 8 名 各 9 古 舌 10 叶 吐 11 几 凡 12 火 灭 13 尤 龙 14 亚 严 15 从 丛 16 曰 白, 田,甲, 由,申, 电, 旦 Ví dụ, về trò chơi viết các chữ đồng âm khác nghĩa theo phiên âm cho trước: giảng viên cung cấp lên bảng phiên âm chữ “lì”, yêu cầu học viên viết ra 5 chữ Hán có âm đọc “lì”. Giảng viên gọi 1 học viên lên bảng theo tinh thần xung phong, các học viên khác ngồi tại chỗ viết đáp án ra vở nháp. Học viên có thể đưa ra đáp án như “力”, “立”, “利”, “历”, “厉” Khi học viên đưa ra đáp án sai, như đưa ra các chữ “李” (lǐ) , “梨” (lí) thì giảng viên cần gợi mở để học viên nhận thấy lỗi sai và sửa trực tiếp. Sau khi học viên viết xong, có thể hỏi học viên về các chữ đã viết, ví dụ: chữ “立” được tổ hợp trong những chữ nào, chữ “利” được tổ hợp trong những chữ nào. Để trò chơi phát huy hiệu quả cao nhất, giảng viên khi thiết kế và áp dụng các trò chơi trong dạy học chữ Hán cần bám sát chương trình môn học để có thể đưa ra những trò chơi phù hợp, sát với nội dung bài học, tránh đưa ra những trò chơi quá khó (kiến thức vượt quá khả năng của học viên). Đồng thời giảng viên cũng cần chuẩn bị đầy đủ, chu đáo về phương tiện, giáo cụ cần thiết và sắp xếp, sử dụng thời gian linh hoạt khi tổ chức trò chơi chữ Hán. Tích cực tham gia các trò chơi chữ Hán, giúp học viên hiểu bài sâu hơn, tự nhiên và mạnh dạn hơn. Lý Tuyền (李泉) và Nguyễn Sướng (阮畅) (2012) cũng chỉ ra yêu cầu xây dựng quan niệm đúng đắn về chữ Hán và dạy học chữ Hán, như xác lập quan niệm lạc quan và nhân văn trong dạy học, từ đó giúp học viên có thêm tự tin và nghị lực để học tốt chữ Hán. 3. KẾT LUẬN Trong thực tiễn dạy học, các phương pháp dạy học chữ Hán nêu trên thường không thực hiện một cách đơn lẻ mà được thực hiện đan xen lẫn nhau, qua đó có thể hỗ trợ, bổ sung cho nhau. Người dạy một mặt cần chú trọng khâu dạy viết chữ trên lớp, tăng cường kiểm tra việc hoàn thành bài tập của người học; thường xuyên tiến hành thu vở bài tập, chữa lỗi sai và phê duyệt; mặt khác cũng cần cải tiến phương pháp giảng dạy, thiết kế các bài giảng sinh động, hấp dẫn; thường xuyên động viên, khích lệ, biểu dương đối với những tiến bộ dù là nhỏ trong viết chữ của người học, từ đó giúp người học vượt qua mặc cảm, tiếp tục kiên trì để học tập chữ Hán tốt hơn. Chúng tôi tin rằng, trong thực tế giảng dạy chữ Hán ở nhà trường, còn có rất nhiều những phương pháp, kỹ xảo dạy học hay đã 94 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 3 - 9/2016 v NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI được các thầy cô giáo vận dụng rất hữu hiệu, nhưng chưa được tổng kết hoặc đưa ra thảo luận. Do vậy nghiên cứu chữ Hán và tổng kết các phương pháp, kỹ xảo dạy học chữ Hán cùng các giải pháp dạy học khác vẫn sẽ là vấn đề cần được chú trọng và tiếp tục đi sâu nghiên cứu trong thời gian tới./. Tài liệu tham khảo: 1. Lê Đình Tư (2010), Ảnh hưởng của tiếng Hán đối với sự phát triển của từ vựng tiếng Việt, <https://ngnnghc. wordpress.com>. 2. 李泉, 阮畅.2012.汉字难学”之教学对策[J].汉语学 习(4). 3. 苏英霞.2015.国际汉语教学: 汉字教学方法与技巧 [M].北京:北京语言大学出版社. 4. 张德鑫.2006.从“词本位”到“字中心”一一对 外汉语教学的战略转移[J].汉语学报(2). 5. 周健.2007.汉字教学理论与方法[M].北京:北京大 学出版社. CHARACTERISTICS OF HAN ZI AND THE METHODS OF LEARNING HAN ZI AT BASIC LEVEL BUI HUY CUONG Abstracts: learning Han zi well at the beginning has a key determiner of developing language practice at higher levels. However, the effectiveness of teaching Han zi is currently not high standard. This is rooted from both objective and subjective causes, in which theoretical research and practice synthesis about Han zi teaching has not been paid enough attention. The article will provide an insight into characteristics of Han zi and synthesize several methods of teaching Han zi for the elementary level. It aims at supplementing some useful knowledge for this crucial field of study. Keywords: Han zi, teaching writing, methodology, mandarin Ngày nhận: 04/8/2016 Ngày phản biện: 04/9/2016 Ngày duyệt đăng: 20/9/2016
File đính kèm:
- dac_diem_chu_han_va_phuong_phap_day_hoc_chu_han_giai_doan_co.pdf