Chính sách pháp luật hình sự Việt Nam hiện nay đối với các tội phạm về hối lộ

Bài viết khái quát và phân tích những thay đổi trong chính sách pháp luật hình sự Việt Nam về

các tội phạm về hối lộ, đồng thời chỉ ra đặc điểm pháp lý của loại tội phạm này. Từ đó, đề xuất một

số giải pháp hoàn thiện các quy định trong Bộ luật hình sự (BLHS) hiện hành về tội phạm hối lộ để

phù hợp với tình hình mới.

Chính sách pháp luật hình sự Việt Nam hiện nay đối với các tội phạm về hối lộ trang 1

Trang 1

Chính sách pháp luật hình sự Việt Nam hiện nay đối với các tội phạm về hối lộ trang 2

Trang 2

Chính sách pháp luật hình sự Việt Nam hiện nay đối với các tội phạm về hối lộ trang 3

Trang 3

Chính sách pháp luật hình sự Việt Nam hiện nay đối với các tội phạm về hối lộ trang 4

Trang 4

Chính sách pháp luật hình sự Việt Nam hiện nay đối với các tội phạm về hối lộ trang 5

Trang 5

Chính sách pháp luật hình sự Việt Nam hiện nay đối với các tội phạm về hối lộ trang 6

Trang 6

Chính sách pháp luật hình sự Việt Nam hiện nay đối với các tội phạm về hối lộ trang 7

Trang 7

pdf 7 trang xuanhieu 6100
Bạn đang xem tài liệu "Chính sách pháp luật hình sự Việt Nam hiện nay đối với các tội phạm về hối lộ", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Chính sách pháp luật hình sự Việt Nam hiện nay đối với các tội phạm về hối lộ

Chính sách pháp luật hình sự Việt Nam hiện nay đối với các tội phạm về hối lộ
ội đưa hối lộ, môi giới hối 
lộ và các loại tội phạm về chức vụ khác. Mặt 
khách quan của các tội phạm về hối lộ có thể 
là hành vi hành động hoặc không hành động 
nhằm xâm hại đến hoạt động bình thường 
của các cơ quan, tổ chức, gây thiệt hại cho lợi 
ích của Nhà nước, của xã hội, các quyền và 
lợi ích hợp pháp của công dân. Thiệt hại có 
thể là gây ra hậu quả về vật chất hoặc phi vật 
chất. Riêng đối với tội môi giới hối lộ thì hậu 
quả không phải là dấu hiệu bắt buộc của cấu 
thành tội phạm.
Hành vi khách quan của tội nhận hối lộ 
là: Người phạm tội nhận hối lộ phải là người 
có hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn của 
mình trực tiếp hoặc qua trung gian nhận hoặc 
sẽ nhận tiền, tài sản hoặc lợi ích khác (lợi ích 
vật chất hoặc phi vật chất) của người đưa hối 
lộ. Với những người có chức vụ, quyền hạn 
nhận quà biếu sau khi đã làm đúng nhiệm vụ 
của mình không được coi là nhận hối lộ vì quà 
biếu được coi như sự biết ơn, có trước có sau, 
là tấm lòng và phong tục của người Việt Nam.
Hành vi khách quan của tội đưa hối lộ thể 
hiện hành vi đưa lợi ích một cách bất chính 
cho người có chức vụ, quyền hạn. Hành vi 
đưa của hối lộ có thể diễn ra trước hoặc sau 
khi người có chức vụ, quyền hạn làm theo 
yêu cầu của người đưa. Hành vi đưa của hối 
lộ có thể trực tiếp hoặc qua trung gian dưới 
bất cứ hình thức nào như quà tặng, thăm hỏi, 
hiếu hỉ tại bất kì địa điểm nào. Hành vi đưa 
hối lộ chỉ cấu thành tội phạm khi của hối lộ 
là tiền, tài sản, lợi ích vật chất khác có giá trị 
từ 2.000.000 đồng trở lên. Đối với trường hợp 
đưa lợi ích phi vật chất, việc xác định giá trị 
lợi ích phi vật chất không có tính bắt buộc.
 Hành vi khách quan của tội môi giới hối lộ 
CHÍNH SÁCH PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM HIỆN NAY...
22 Khoa học Kiểm sát Số Chuyên đề 01 - 2021
thể hiện ở hành vi làm trung gian giữa người 
nhận hối lộ và người đưa hối lộ. Hành vi môi 
giới hối lộ chỉ cấu thành tội phạm nếu người 
môi giới nhận thức được hành vi của mình 
là để người đưa và người nhận trao đổi, thỏa 
thuận về việc đưa nhận hối lộ. Nếu người làm 
trung gian hoàn toàn không nhận thức được 
hoặc biết được hai bên đã bàn bạc thỏa thuận 
về việc đưa, nhận hối lộ thì không phải chịu 
trách nhiệm. Cần xác định hành vi môi giới 
hối lộ với hành vi lợi dụng chức vụ, quyền 
hạn gây ảnh hưởng với người khác để trục lợi 
(Điều 358); hành vi lợi dụng ảnh hưởng đối 
với người có chức vụ, quyền hạn để trục lợi 
(Điều 366) hoặc hành vi lừa đảo chiếm đoạt 
tài sản (Điều 174).
Thứ ba, chủ thể của tội phạm. Với các tội 
phạm về hối lộ không có chủ thể đặc biệt mà 
bao gồm cả người có chức vụ, quyền hạn và 
người làm trong các doanh nghiệp, tổ chức 
ngoài Nhà nước khi đạt độ tuổi nhất định 
và có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự. 
Riêng đối với chủ thể nhận hối lộ là người có 
chức vụ, quyền hạn thì chức vụ, quyền hạn 
ấy phải liên quan trực tiếp đến việc giải quyết 
công việc của người đưa hối lộ. Trường hợp 
người có chức vụ nhưng chức vụ, quyền hạn 
của họ không liên quan đến việc giải quyết 
công việc theo yêu cầu của người đưa hối 
lộ thì không coi là tội nhận hối lộ mà phạm 
vào tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh 
hưởng đối với người khác để trục lợi, quy 
định tại Điều 358 BLHS năm 2015.
Thứ tư, mặt chủ quan của tội phạm. Mặt chủ 
quan của tội phạm về hối lộ được thực hiện 
do lỗi cố ý trực tiếp, tức là người phạm tội 
thấy trước hành vi của mình là nguy hiểm 
cho xã hội và mong muốn cho hậu quả xảy ra. 
Mục đích nhận hối lộ của người phạm tội là 
dấu hiệu bắt buộc trong cấu thành tội phạm 
của tội nhận hối lộ.
4. Thực tiễn áp dụng chính sách pháp 
luật hình sự đối với tội phạm về hối lộ trong 
hoạt động xét xử vụ án hình sự ở Việt Nam 
BLHS hiện hành quy định nhóm tội về hối 
lộ đã có sự sửa đổi, bổ sung nhằm phù hợp 
với Công ước của Liên hợp quốc về chống 
tham nhũng năm 2003 (UNCAC) như: (1) Mở 
rộng chủ thể của tội phạm và chủ thể bị tác động 
của tội phạm. Chủ thể của tội nhận hối lộ bao 
gồm cả chủ thể có chức vụ, quyền hạn và có 
nhiệm vụ tại các cơ quan trong và ngoài nhà 
nước. Đồng thời, người có chức vụ, quyền 
hạn ở khu vực ngoài nhà nước có thể trở 
thành đối tượng tác động của các Tội đưa hối 
lộ (Điều 364), Tội môi giới hối lộ (Điều 365). 
Đặc biệt, khoản 6 Điều 364 đã bổ sung hành vi 
hối lộ công chức nước ngoài để mở rộng đối 
tượng tác động của tội đưa hối lộ bao gồm cả 
hoạt động thực hiện công vụ của công chức 
nước ngoài, tổ chức quốc tế tại Việt Nam. (2) 
Mở rộng của hối lộ bao gồm cả các lợi ích phi vật 
chất. Bất kỳ lợi ích nào được đưa, nhận một 
cách bất chính nhằm thay đổi hoạt động đúng 
đắn của cơ quan, tổ chức đều bị xem là “của 
hối lộ”. Các của hối lộ phi vật chất như tặng 
thưởng, nâng điểm thi, hứa hẹn, cho đi học, 
hối lộ tình dục12 (3) Bên thứ ba được hưởng 
lợi. Việc mở rộng tội đưa hối lộ khi quy định 
chủ thể được thụ hưởng của hối lộ là chính 
bản thân người có chức vụ, quyền hạn hoặc 
cho người khác hoặc tổ chức khác tại Điều 364 
đã tạo cơ sở pháp lý đầy đủ và trực tiếp cho 
việc xử lý hành vi đưa hối lộ.
Ngoài ra, chính sách PLHS đối với tội 
phạm về hối lộ tại BLHS năm 2015 có quy định 
nhằm xử lý nghiêm đối với người lợi dụng 
hoặc lạm dụng chức vụ, quyền hạn, nhiệm vụ 
để phạm tội nhưng cũng có chính sách khoan 
hồng, tạo điều kiện cho người phạm tội được 
lập công chuộc tội. Cụ thể:
(1) Thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự. 
Quy định tại khoản 3, 4 Điều 354 BLHS năm 
2015 không áp dụng thời hiệu truy cứu trách 
nhiệm hình sự đối với tội nhận hối lộ. Điều 
này thể hiện tội nhận hối lộ cần phải trừng trị 
nghiêm khắc như đối với các tội xâm phạm an 
ninh quốc gia.
(2) Hình phạt. Tội nhận hối lộ chỉ có hình 
phạt chính là phạt tù. Hình phạt tiền, phạt cải 
tạo không giam giữ là hình phạt chính bên 
cạnh hình phạt tù đối với tội đưa hối lộ và 
tội môi giới hối lộ. Mặc dù hình phạt cao nhất 
của tội nhận hối lộ là tử hình nhưng BLHS đã 
quy định rằng người bị kết án tử hình về tội 
nhận hối lộ mà sau khi bị kết án, chủ động 
12  Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao (2020), 
Nghị quyết số 03/2020/NQ-HĐTP ngày 30/12/2020 
hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật Hình 
sự trong xét xử tội phạm tham nhũng và tội phạm khác 
về chức vụ.
VŨ VIỆT TƯỜNG
23Số Chuyên đề 01 - 2021 Khoa học Kiểm sát
nộp lại ít nhất ¾ tài sản nhận hối lộ và hợp 
tác tích cực với cơ quan chức năng trong việc 
phát hiện, điều tra, xử lý tội phạm hoặc lập 
công lớn thì sẽ không thi hành án tử hình13. 
Như vậy, việc xem xét không bị tử hình chỉ 
áp dụng sau khi có bản án của Tòa án xét xử. 
Trước khi có bản án, các bị can dù có nộp đủ 
số tiền nhận hối lộ để khắc phục hậu quả vẫn 
chỉ được xem là tình tiết giảm nhẹ14. 
(3) Miễn trách nhiệm hình sự. Người phạm 
tội đưa hối lộ và môi giới hối lộ được miễn 
trách nhiệm hình sự khi: (i) Chủ động khai 
báo và; (ii) Người phạm tội đã khai báo trước 
khi hành vi phạm tội bị phát giác. 
Trong 10 năm, từ năm 2006 đến 2016, số vụ 
án bị xét xử về Tội nhận hối lộ theo Điều 279 
BLHS năm 1999, sửa đổi, bổ sung năm 2009 là 
282 vụ/721 bị cáo. Số vụ án có xu hướng giảm 
hơn khi năm 2016, chỉ có 13 vụ/45 bị cáo.15 
Con số này chưa phản ánh được thực trạng 
về xử lý tội phạm về hối lộ của người có chức 
vụ, quyền hạn tại Việt Nam bởi năm 2017, 
Việt Nam đứng thứ 113/176 quốc gia trong 
Bảng xếp hạng Chỉ số cảm nhận Tham nhũng 
(CPI)16. Trong khi đó, nhìn vào số liệu báo cáo 
thì loại tội phạm về hối lộ tại Việt Nam lại có 
xu hướng giảm và mang tính chất ổn định 
trong vòng 10 năm. 
Việc số vụ án bị xét xử ít còn là nguyên 
nhân từ quy định của luật đã giới hạn lại đối 
tượng bị khởi tố về tội nhận hối lộ theo quy 
định tại Điều 279 BLHS năm 1999 chỉ là người 
có chức vụ trong cơ quan nhà nước, không bao 
gồm người có nhiệm vụ tại các tổ chức, doanh 
nghiệp. Tội đưa hối lộ theo Điều 289 BLHS 
năm 1999, sửa đổi, bổ sung năm 2009 cũng 
có xu hướng giảm trong 10 năm từ 2006 đến 
2016. Tổng số vụ án trong 10 năm là 272/490 
vụ, trong đó, thấp nhất là năm 2015 có 9 vụ/13 
13  Xem: Khoản 3 Điều 40 BLHS năm 2015, sửa đổi, bổ 
sung năm 2017
14  Xem: Điều 51 BLHS năm 2015, sửa đổi, bổ sung 
năm 2017.
15  Vụ Thống kê – Tổng hợp, Tòa án nhân dân tối cao 
(2017), Thống kê số vụ án, số bị cáo bị xét xử về từng tội 
trong nhóm tội phạm có chức vụ tại Việt Nam.
16  Trang Towards Transparency, Chỉ số cảm nhận về tham 
nhũng 2016: Việt Nam tăng nhẹ về điểm số. Nguồn truy cập: 
https://towardstransparency.vn/chi-cam-nhan-tham- 
nhung-2016-viet-nam-tang-nhe-ve-diem/ 
bị cáo, năm 2016 có 10 vụ/22 bị cáo17. Riêng 
Tội làm môi giới hối lộ theo Điều 290 BLHS 
năm 1999 chiếm con số khiêm tốn trong vòng 
10 năm với 21 vụ/56 bị can. Năm 2007 không 
có trường hợp nào bị đưa ra xét xử về tội này, 
số vụ án hằng năm bị khởi tố không quá 5 vụ/
năm. Riêng năm 2015 có 02 vụ nhưng có 14 bị 
cáo bởi có nhiều đồng phạm trong vụ án này. 
Thực tiễn áp dụng chính sách PLHS trong 
đấu tranh phòng, chống các tội phạm về hối 
lộ cho thấy, mặc dù có sự chuyển biến và đạt 
kết quả nhưng sự bất cập trong quy định về 
cấu thành cuả một số tội phạm có liên quan 
đến tội nhận hối lộ và đưa hối lộ vì chưa 
phản ánh đúng tình hình và phương thức, 
thủ đoạn hoạt động của tội phạm. BLHS được 
ban hành mới vào năm 2015 nhưng lại được 
sửa đổi, bổ sung năm 2017 và thời hạn có hiệu 
lực vào ngày 01/01/2018 nên chưa có thống kê 
đầy đủ sau 05 năm áp dụng BLHS liên quan 
đến thực hiện chính sách pháp luật hình sự 
đối với tội phạm về hối lộ trong hoạt động xét 
xử. Tuy nhiên, từ thông tin về tình hình khởi 
tố vụ án và xét xử thì sau khi có sự điều chỉnh 
tội phạm về hối lộ trong BLHS năm 2015 cho 
thấy, đã có nhiều chủ thể trong khu vực tư bị 
khởi tố, xét xử và mở rộng chủ thể bị xét xử 
bởi tội nhận hối lộ bao gồm cả các chủ thể có 
nhiệm vụ. 
5. Một số kiến nghị, đề xuất
Từ thực trạng quy định pháp luật và từ 
thực tiễn áp dụng chính sách PLHS Việt Nam 
về tội phạm hối lộ, bài viết đề xuất một số kiến 
nghị nhằm làm rõ hơn tại một số quy định về 
tội phạm hối lộ và tạo ra sự tương thích giữa 
pháp luật Việt Nam và UNCAC. Cụ thể:
Thứ nhất, chuyển tội đưa hối lộ từ phần các tội 
phạm khác về chức vụ lên phần tội phạm về tham 
nhũng. Bởi theo UNCAC, hành vi đưa hối lộ 
và nhận hối lộ đều là tội phạm tham nhũng. 
Hai loại tội này có mối liên hệ với nhau trong 
quá trình thực hiện hành vi phạm tội như 
trường hợp khi cơ quan tố tụng xác định được 
chủ thể đã đưa của hối lộ thì sẽ xác định được 
chủ thể nhận hối lộ. 
Thứ hai, xem xét về việc bỏ tội môi giới hối lộ. 
Từ thực tiễn xét xử loại tội phạm này trong 10 
năm qua cũng như khi nghiên cứu pháp luật 
17  Vụ Thống kê – Tổng hợp, Tòa án nhân dân tối 
cao (2017).
CHÍNH SÁCH PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM HIỆN NAY...
24 Khoa học Kiểm sát Số Chuyên đề 01 - 2021
một số quốc gia cho thấy, rất ít các quốc gia 
quy định hành vi môi giới hối lộ thành tội độc 
lập. Chỉ nên coi người môi giới là người giúp 
sức, đồng phạm trong vụ đưa hối lộ hoặc 
nhận hối lộ.
Thứ ba, xem xét hình phạt và trách nhiệm hình 
sự. Pháp luật cần có hướng dẫn cụ thể về hình 
phạt đối với tội hối lộ trong khu vực tư bởi 
tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi hối lộ 
trong khu vực công khác với hối lộ trong khu 
vực tư khi xét trong hoàn cảnh kinh tế - xã hội 
hiện nay tại Việt Nam. Riêng đối với hành vi 
quy định tại khoản 7 Điều 364 về Tội đưa hối 
lộ, việc người đưa hối lộ chủ động khai báo 
trước khi bị phát giác “có thể được miễn trách 
nhiệm hình sự” sẽ dễ tạo ra sự không thống 
nhất trong việc áp dụng chính sách PLHS do 
phải tùy thuộc vào sự nhân định chủ quan 
của các cơ quan tiến hành tố tụng. Để đảm 
bảo sự thống nhất và đề cao tính nhân đạo 
trong chính sách PLHS đối với tội phạm này, 
BLHS nên bỏ cụm từ “có thể” để khuyến 
khích người phạm tội tự thú, góp phần trong 
công tác đấu tranh, phòng, chống hiệu quả 
đối với loại tội này.
Thứ tư, bổ sung trách nhiệm hình sự của 
pháp nhân tối với tội đưa hối lộ và nhận hối lộ. 
Từ thực tiễn công tác quản lý nhà nước và 
phát triển kinh tế cho thấy, muốn có lợi thế 
trong sản xuất, kinh doanh, đấu thầu, các 
pháp nhân không thể không đưa hối lộ cho 
người có chức vụ, quyền hạn trong các cơ 
quan, tổ chức để nhận được “hỗ trợ chính 
sách”, “hỗ trợ cơ chế” nhằm có những lợi 
thế, ưu đãi riêng thông qua các Hợp đồng 
hay thỏa thuận đầu tư Ngoài ra, các biện 
pháp hành chính, các chế tài dân sự không 
phát huy hiệu quả và không khắc phục được 
hậu quả thiệt hại do hành vi hối lộ của pháp 
nhân, đặc biệt là trong các vụ có dấu hiệu 
của vi phạm pháp luật cạnh tranh. Mặc dù 
cá nhân thực hiện hành vi phạm tội cũng bị 
khởi tố nhưng pháp nhân cũng là chủ thể 
được hưởng lợi từ hành vi đưa hối lộ này. 
Vì vậy, việc chỉ truy cứu trách nhiệm hình 
sự của cá nhân trong trường hợp này là thiếu 
thuyết phục. Thêm vào đó, cá nhân nhân 
danh pháp nhân để thực hiện hành vi đưa 
hối lộ, hành vi này vì lợi ích của pháp nhân, 
và cá nhân thực hiện hành vi là có sự chỉ đạo 
từ pháp nhân thì pháp nhân phải chịu trách 
nhiệm hình sự là thỏa đáng18. Do đó, hình 
phạt dành cho pháp nhân là phạt tiền (chủ 
yếu) và đình chỉ hoạt động (biện pháp cuối 
cùng) là thỏa đáng đối với các pháp nhân 
này. Mặc dù Việt Nam đã tuyên bố bảo lưu 
không truy cứu trách nhiệm hình sự của 
pháp nhân khi tham gia UNCAC và tuyên bố 
không bị ràng buộc về quy định trách nhiệm 
hình sự của pháp nhân trong Công ước của 
Liên hợp quốc về chống tội phạm có tổ chức 
xuyên quốc gia (Công ước TOC) nhưng Điều 
10 của Công ước quy định các quốc gia thành 
viên phải ban hành những biện pháp phù 
hợp với nguyên tắc pháp lý của nước mình 
để xác định trách nhiệm pháp lý của pháp 
nhân trong việc thực hiện những hành vi 
phạm tội như tham nhũng. Vì vậy, để phục 
vụ cho công cuộc đấu tranh hiệu quả đối với 
tội phạm về hối lộ, Việt Nam cần quy định 
trách nhiệm hình sự của pháp nhân đối với 
tội nhận hối lộ và tội đưa hối lộ. Đây cũng là 
chính sách PLHS đối với tội phạm về hối lộ 
mà Singapore, Trung Quốc đã quy định.
Tóm lại, chính sách hình sự đối với các tội 
phạm về chức vụ nói chung và tội phạm về 
hối lộ nói riêng đang là vấn đề có khả năng đe 
dọa đến sự ổn định an ninh chính trị và sự tồn 
vong của chế độ. Tuy chính sách PLHS đối với 
các tội phạm về hối lộ trong BLHS hiện hành 
đã có những bước tiến hơn so với chính sách 
PLHS trước đây nhưng tham nhũng đang là 
quốc nạn của nhiều quốc gia, là nạn nội xâm 
nguy hiểm, làm xói mòn niềm tin của người 
dân vào chính quyền. Vì vậy, cần phải vừa 
hoàn thiện chính sách PLHS và vừa nâng 
cao hiệu quả áp dụng chính sách PLHS vào 
các hoạt động tố tụng hình sự đối với các tội 
phạm về hối lộ trong thời gian tới. Việc hình 
sự hóa các hành vi vi phạm cần có tính đồng 
bộ với Luật phòng chống tham nhũng và các 
cam kết trong UNCAC./.
18  Điều 75 BLHS năm 2015

File đính kèm:

  • pdfchinh_sach_phap_luat_hinh_su_viet_nam_hien_nay_doi_voi_cac_t.pdf