Các nghiên cứu về vai trò của truyền thông đại chúng đối với trật tự an toàn giao thông

Tóm tắt: Trật tự an toàn giao thông là một trong những vấn đề đã được các quốc gia

quan tâm từ lâu, đặc biệt trong xã hội hiện đại và phát triển hiện nay. Liên quan đến

vấn đề trật tự an toàn giao thông, công tác truyền thông và vai trò của các phương tiện

truyền thông đại chúng (TTĐC) đối với trật tự an toàn giao thông đã có nhiều nghiên

cứu từ nhiều phương diện, khía cạnh, góc độ khác nhau. Nội dung bài viết tổng quan

các nghiên cứu về vai trò của TTĐC đối với trật tự an toàn giao thông.

Các nghiên cứu về vai trò của truyền thông đại chúng đối với trật tự an toàn giao thông trang 1

Trang 1

Các nghiên cứu về vai trò của truyền thông đại chúng đối với trật tự an toàn giao thông trang 2

Trang 2

Các nghiên cứu về vai trò của truyền thông đại chúng đối với trật tự an toàn giao thông trang 3

Trang 3

Các nghiên cứu về vai trò của truyền thông đại chúng đối với trật tự an toàn giao thông trang 4

Trang 4

Các nghiên cứu về vai trò của truyền thông đại chúng đối với trật tự an toàn giao thông trang 5

Trang 5

Các nghiên cứu về vai trò của truyền thông đại chúng đối với trật tự an toàn giao thông trang 6

Trang 6

Các nghiên cứu về vai trò của truyền thông đại chúng đối với trật tự an toàn giao thông trang 7

Trang 7

Các nghiên cứu về vai trò của truyền thông đại chúng đối với trật tự an toàn giao thông trang 8

Trang 8

pdf 8 trang xuanhieu 5620
Bạn đang xem tài liệu "Các nghiên cứu về vai trò của truyền thông đại chúng đối với trật tự an toàn giao thông", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Các nghiên cứu về vai trò của truyền thông đại chúng đối với trật tự an toàn giao thông

Các nghiên cứu về vai trò của truyền thông đại chúng đối với trật tự an toàn giao thông
hông qua thay đổi những niềm tin, 
giá trị, chuẩn mực đó (Martine Stead, 
Anne Marie MacKintosh, Stephen Tagg, 
Douglas Eadie, 2002). 
Cùng đề cập đến vấn đề này, công 
trình tiếp theo Nghiên cứu trường hợp: 
Chiến lược truyền thông thay đổi hành vi 
nhằm giảm tốc độ của người tham gia 
giao thông của Martine Stead và Douglas 
Eadie đã cung cấp cơ sở và các khuyến 
nghị phù hợp cho việc phát triển các mô 
hình can thiệp (từ TTĐC) nhằm giảm tốc 
độ không phù hợp (có thể vẫn phù hợp 
trong giới hạn pháp lý nhưng không phù 
hợp với các điều kiện giao thông) và 
những hành vi vi phạm luật giao thông 
trên đường đô thị tại Scotland. Đây được 
coi là nỗ lực đầu tiên trong kế hoạch phát 
triển các mô hình can thiệp hành vi lái xe 
tại Anh. Nghiên cứu đã thực hiện đánh giá 
các mô hình, hình thức truyền thông định 
hướng hành vi và đưa ra kết luận: Các 
chiến dịch liên quan đến an toàn đường bộ 
có thể thành công dựa trên một mô hình 
tâm lý mà không cần sử dụng các biện 
pháp tạo tâm lý sợ hãi như những hình 
ảnh về các vụ tai nạn. Kết quả nghiên cứu 
cho thấy, một chiến dịch kết hợp một loạt 
các kênh truyền thông (quảng cáo, 
website, bản tin) với các phương tiện 
truyền thông, thông tin hợp lý sẽ có hiệu 
quả cao. Nghiên cứu cũng chỉ ra vai trò 
quan trọng của cơ quan truyền thông, đặc 
biệt là uy tín của cơ quan truyền thông đối 
với thái độ tiếp nhận của cộng đồng 
(Martine Stead, Douglas Eadie, 2007). 
* Về hành vi giao thông ở lĩnh vực 
giao thông công cộng 
Hệ thống giao thông công cộng ngày 
càng có vai trò quan trọng, đặc biệt ở các 
khu vực đô thị. Với mục đích tìm kiếm 
một giải pháp kỹ thuật tối ưu cho truyền 
thông trong dịch vụ xe bus công cộng, 
Andres Herkel đã thực hiện đề tài Nghiên 
cứu hệ thống truyền thông giao thông 
công chính tại Estonia. Trên cơ sở phân 
tích tác động của truyền thông đến giao 
thông, tác giả đề xuất, nên thiết lập và tích 
hợp các hệ thống thông tin kỹ thuật và 
truyền thông trên các phương tiện giao 
thông công cộng (đặc biệt là dịch vụ xe 
bus công cộng), như: hệ thống bán vé, 
thông báo trạm dừng, thông tin quảng cáo, 
truyền thông để giảm thiểu những căng 
thẳng giao thông và tăng cường an toàn 
giao thông (Andres Herkel Civitas, 2011). 
30 Th«ng tin Khoa häc x· héi, sè 5.2016 
Công trình Nghiên cứu Hành vi xã hội 
trong giao thông công cộng của Spencer 
Hazel cũng tìm hiểu hành vi của người 
tham gia giao thông trong các hệ thống 
giao thông công cộng tại Copenhagen và 
London, nhằm trả lời câu hỏi hành vi của 
người tham gia giao thông bị ảnh hưởng 
bởi các yếu tố nào. Thông qua việc sử 
dụng các phương pháp tiếp cận lý thuyết 
(tâm lý học xã hội và nhân học tâm lý), 
các nhà nghiên cứu tìm kiếm các mẫu 
hành vi xã hội và chống lại xã hội. Các 
yếu tố được đưa vào nghiên cứu bao gồm: 
tâm lý học, truyền thông, giao thoa văn 
hóa và ngôn ngữ. Kết quả nghiên cứu cho 
thấy: môi trường, văn hóa, yếu tố truyền 
thông có tác động đến hành vi giao thông 
của người tham gia giao thông công cộng. 
Tuy nhiên, kết quả quan sát chỉ mang tính 
tương đối, vì nó không giống nhau ở mọi 
thời điểm (Spencer Hazel, 2011). 
* Một số nghiên cứu khác 
Internet là một trong những phương 
tiện TTĐC thời hiện đại, và cũng tác động 
khá lớn đến vấn đề giao thông. Về vấn đề 
này, Casas J., Zmud J. và cộng sự đã làm 
rõ trong nghiên cứu Ảnh hưởng của mua 
sắm trên mạng đến thói quen di chuyển 
cho mục đích mua sắm. Nghiên cứu đã chỉ 
ra rằng, tiện ích mua sắm trên mạng trực 
tuyến sẽ làm hạn chế số lượng người tham 
gia giao thông cho mục đích mua sắm, và 
hiển nhiên có tác động đến lưu lượng 
tham gia giao thông nói chung (Casas J., 
Zmud J., Bricka S., 2001). 
Một số nghiên cứu khác cùng chủ đề 
phương tiện TTĐC hiện đại và tác động 
đến giao thông có thể kể đến là: Farag S., 
Schwanen T., Dijst M., Faber J. (2007), 
Mua sắm trực tuyến và vấn đề giao thông 
hiện nay; Hamer R., Kroes E., Van 
Ooststroom H. (1991), Làm việc qua điện 
thoại ở Hà Lan - Đánh giá những thay đổi 
về hành vi giao thông;... Những nghiên 
cứu này đều khẳng định hành vi tham gia 
giao thông (tần suất, thời điểm, mức độ) 
bị ảnh hưởng bởi các phương tiện TTĐC 
ở các mức độ khác nhau. 
Nhìn chung, các công trình nghiên 
cứu trên thế giới về TTĐC và vai trò đối 
với trật tự an toàn giao thông đều đặt 
TTĐC ở một vị trí quan trọng trong tương 
quan và ảnh hưởng đến hành vi giao 
thông, sự tuân thủ pháp luật và tính chất 
của hành vi giao thông. Những nghiên cứu 
này đều là cơ sở tham khảo quan trọng đối 
với công tác quản lý giao thông của các 
quốc gia hiện nay. 
II. Các nghiên cứu ở Việt Nam 
Những năm gần đây, hiểu rõ những 
tác động nghiêm trọng của tai nạn giao 
thông đến xã hội, một số dự án và nghiên 
cứu trong lĩnh vực an toàn giao thông đã 
được triển khai. Vấn đề trật tự an toàn 
giao thông từ tiếp cận của TTĐC đã được 
đề cập trong một số nghiên cứu ở Việt 
Nam có sự hợp tác với các nhà khoa học 
ngoài nước. 
Vấn đề đội mũ bảo hiểm khi tham gia 
giao thông (bằng xe mô tô, xe gắn máy) 
được đặc biệt quan tâm trong các nghiên 
cứu ở Việt Nam vào thời điểm bắt đầu quy 
định người ngồi trên xe mô tô, xe gắn máy 
bắt buộc phải đội mũ bảo hiểm. Tiêu biểu 
có thể kể đến nghiên cứu Quy định đội mũ 
bảo hiểm bắt buộc và các phương tiện báo 
chí in tại Việt Nam của Hill P, Ngo A và 
các cộng sự. Nghiên cứu chỉ rõ, với việc 
người sử dụng xe máy tham gia giao 
thông ở Việt Nam ngày càng tăng, việc 
bắt buộc đội mũ bảo hiểm trong Luật Giao 
thông đường bộ là yêu cầu cấp thiết. 
Nghiên cứu đã phân tích định tính các 
thông tin của 8 tờ báo in phổ biến tại Việt 
Nam về tình hình thực hiện quy định này, 
xác định các chủ đề nổi bật liên quan được 
C¸c nghiªn cøu 31 
đề cập. Nghiên cứu cũng chỉ ra những ý 
kiến trái chiều và những trở ngại trong 
việc sử dụng mũ bảo hiểm, phản ứng của 
thị trường và những quan ngại xung quanh 
chất lượng mũ bảo hiểm. Đồng thời cho 
thấy, các phương tiện truyền thông đã 
đóng vai trò là nơi đối thoại giữa Nhà 
nước và người dân xung quanh vấn đề này 
tại thời điểm đưa quy định bắt buộc đội 
mũ bảo hiểm vào thực hiện (Hill P, Ngo 
A, Khuong T, Dao H, Hoang H, Nguyen 
L, Nguyen P, 2009). Một nghiên cứu khác 
là Pháp luật bắt buộc đội mũ bảo hiểm xe 
máy của Việt Nam và tác động của nó đối 
với trẻ em của Aaron P., Jonathon P. và 
các cộng sự được thực hiện tại Hà Nội, 
Tp. Hồ Chí Minh, Cần Thơ và Đà Nẵng. 
Kết quả nghiên cứu cho thấy, tần số sử 
dụng mũ bảo hiểm của người lớn là 90-
99%, nhưng ở trẻ em chỉ là 15-53%, mặc 
dù các hoạt động tuyên truyền, vận động 
đội mũ bảo hiểm cho trẻ em khi tham gia 
giao thông bằng xe mô tô, xe gắn máy đã 
được thực hiện rất tích cực trên các 
phương tiện TTĐC (Aaron P., Jonathon 
P., Mirjam S., Tyler M., Thi Hong Tu 
Nguyen, Phuong Nam Nguyen, 2009). 
Các kiến thức/thông tin được cung 
cấp qua các phương tiện TTĐC là kênh 
đặc biệt quan trọng giúp thay đổi hành vi 
của những người lái xe tại Việt Nam. Điều 
này đã được khẳng định trong nghiên cứu 
Thói quen uống rượu bia và hành vi lái 
xe: Nhận thức, nguy cơ và mô hình can 
thiệp hiệu quả của Tam NM. Kết quả 
nghiên cứu cho thấy, một tỷ lệ lớn các ca 
tai nạn giao thông đều liên quan đến đồ 
uống có cồn. Các yếu tố có liên quan đáng 
kể với việc uống rượu bia và tham gia 
giao thông là độ tuổi, loại đồ uống, tần 
suất uống, nhận thức của người lái xe sử 
dụng rượu bia, (Tam NM, 2010). 
Góp phần làm rõ vai trò của TTĐC 
đối với trật tự an toàn giao thông, một số 
nội dung trong nghiên cứu Nâng cao vai 
trò của lực lượng Cảnh sát giao thông 
nhằm đảm bảo trật tự, an toàn giao thông 
trong tình hình mới của Trần Minh Thư đã 
khẳng định: các phương tiện TTĐC có vai 
trò vô cùng quan trọng để lực lượng 
chuyên ngành thực hiện tốt việc đảm bảo 
trật tự, an toàn giao thông trong tình hình 
hiện nay. Việc vận dụng linh hoạt các 
kênh và hình thức TTĐC có thể góp phần 
thúc đẩy mạnh mẽ hiệu quả của công tác 
tuyên truyền, giáo dục, vận động quần 
chúng chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật, 
tham gia giữ gìn trật tự an toàn giao 
thông. Tiểu biểu là các phong trào “Toàn 
dân tham gia bảo đảm trật tự an toàn giao 
thông”, các nội dung lồng ghép trong cuộc 
vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng 
đời sống văn hóa ở khu dân cư”, Thông 
qua các phương tiện TTĐC, nhiều mô 
hình phong trào tiêu biểu ở một số địa 
phương về giữ gìn trật tự an toàn giao 
thông đã được tuyên truyền, phổ biến rộng 
rãi để nhân rộng. Các cơ quan, tổ chức 
truyền thông cũng đã tích cực phối hợp 
với các nhà trường mở lớp giáo dục pháp 
luật về trật tự an toàn giao thông cho học 
sinh, sinh viên; mở các chuyên mục an 
toàn giao thông phản ánh kịp thời tình 
hình trật tự an toàn giao thông, tuyên 
truyền phổ biến pháp luật, biểu dương 
người tốt, việc tốt, cảnh báo tai nạn, ùn tắc 
giao thông cho người dân; phối hợp với 
các tổ chức, cá nhân làm công tác nghệ 
thuật tổ chức sáng tác, dàn dựng, biểu 
diễn, sân khấu hóa nhiều tác phẩm về đề 
tài trật tự an toàn giao thông... (Trần Minh 
Thư, 2015). 
Tiếp cận vấn đề ảnh hưởng của giáo 
dục đến an toàn giao thông, nghiên cứu 
Ảnh hưởng của giáo dục đến an toàn giao 
thông: một nghiên cứu trường hợp ở Việt 
Nam của nhóm tác giả Hung KV, Huyen 
LT cho thấy, yếu tố giáo dục thông qua 
32 Th«ng tin Khoa häc x· héi, sè 5.2016 
truyền thông có vai trò quan trọng trong 
việc trang bị và nâng cao nhận thức của 
người tham gia giao thông về cách lưu 
hành an toàn. Ở Việt Nam, tỷ lệ tử vong 
do tai nạn giao thông đường bộ là khá cao 
so với các nước Đông Nam Á khác. Tai 
nạn giao thông khiến không ít người tử 
vong hoặc bị thương nặng, không những 
ảnh hưởng đáng kể đến cuộc sống cá nhân 
và gia đình, mà còn ảnh hưởng đến sự 
phát triển kinh tế và xã hội của quốc gia. 
Để xây dựng một môi trường giao thông 
thuận tiện và an toàn cho người tham gia 
giao thông, nghiên cứu này đã đưa ra 
những đánh giá về ảnh hưởng của giáo 
dục, truyền thông và thực thi an toàn giao 
thông (Hung KV, Huyen LT, 2011). 
Một số nghiên cứu khác dù không 
trực tiếp đề cập nhưng cũng đã có những 
nội dung liên quan đến vai trò của TTĐC 
đối với trật tự, an toàn giao thông. Nhiều 
nghiên cứu khẳng định phương tiện TTĐC 
là một thứ quyền lực mềm hữu hiệu trong 
việc điều chỉnh các hành vi giao thông 
lệch chuẩn. 
Có thể thấy, các nghiên cứu về vai trò 
của TTĐC đối với trật tự an toàn giao 
thông trên thế giới nói chung và ở Việt 
Nam nói riêng đã được thực hiện từ nhiều 
phương diện, góc độ khác nhau và đã có 
những giá trị thực tiễn nhất định  
Tài liệu tham khảo 
1. Aaron P., Jonathon P., Mirjam 
S., Tyler M., Thi Hong Tu 
Nguyen, Phuong Nam Nguyen (2009), 
“Viet Nam's mandatory motorcycle 
helmet law and its impact on 
children”, Bulletin of the World Health 
Organization, 87:369-373, 
7/5/08-057109/en/, truy cập ngày 
20/11/2015. 
2. Andres Herkel Civitas (2011), Public 
transport communication system, 
transport-communication-system, truy 
cập ngày 8/8/2015. 
3. Bener A. Road (2001), “Traffic 
Injuries in developing countries: 
Motor Vehicle Accidents in the United 
Arab Emirates: Strategies for 
prevention”, Global Forum for Health 
research, the 10/10 Gap in Health 
research, Forum, Geneva, 9-12 
October 2001. 
4. Bert van Wee, Karst Geurs, Caspar 
Chorus (2013), “Information, 
communication, travel behavior and 
accessibility”, Journal of transport 
and land use, 
https://www.utwente.nl/ctw/vvr/pdf/20
13_vanwee_geurs_Information,%20co
mmunciation.pdf, truy cập ngày 
10/8/2015. 
5. Casas J., Zmud J., Bricka S (2001), 
Impact of shopping via Internet on 
travel for shopping purposes, Paper 
present at the 80th Annual Meeting of 
Transportation Rerearch Board, 
Washington, D.C. 
6. Center for Natural Environment, 
Resources and Development (India) 
(2009), Transport and communication 
research. 
7. Donggen Wang, Fion Yuk Ting Law 
(2007), Impacts of Information and 
Communication Technologies (ICT) 
on time use and travel behavior: a 
structural equations analysis, 
Transportation, 34(4):513-
527, February. 
8. Farag S., Schwanen T., Dijst M., 
Faber J. (2007), Shopping online 
and/or in store? A structural equation 
C¸c nghiªn cøu 33 
model of the relationships between e-
shopping and in-store shopping, 
article/pii/S0965856406000267, truy 
cập ngày 20/11/2015. 
9. Hamer R., Kroes E., Van Ooststroom 
H. (1991), “Teleworking in the 
Netherlands: An evaluation of changes 
in travel behavior”, Transportation, 18. 
10. Hill P, Ngo A, Khuong T, Dao H, 
Hoang H, Nguyen L, Nguyen P 
(2009), “Mandatory helmet legislation 
and the print media in Vietnam”, 
Accid Anal Prev, 41 (4): 789-797. 
11. Hung KV, Huyen LT (2011), 
“Education influence in traffic safety: 
A case study in Vietnam”, IATSS Res, 
34 (2): 87-93. 
12. James Mayrose (2008), “The effects of 
a mandatory motorcycle helmet law on 
helmet use and injury patterns among 
motorcyclist fatalities”, Journal of 
safty research 39, 
https://www.researchgate.net/publicati
on/23251094_The_effects_of_mandat
ory_motorcycle_helmet_law_on_helm
et_use_and_injury_patterns_among_m
otorcyclist_fatalities, truy cập ngày 
8/7/2015. 
13. Maria Nilsson, Rikard K’uller (2000), 
Travel behavior and environmental 
concern, Environmental Psychology 
Unit, Lund Institute of Technology, 
P.O. Box 118, SE-221 00 Lund, 
Sweden, 
mmary?doi=10.1.1.460.4843, truy cập 
ngày 12/8/2015. 
14. Martine Stead, Anne Marie 
MacKintosh, Stephen Tagg, Douglas 
Eadie (2002), “Changing Speeding 
Behaviour in Scotland: An evaluation 
of the ‘Foolsspeed’ campaign”, 
Scottish Executive Social Research, 
30, October. 
15. Martine Stead, Douglas Eadie (2007), 
A social advertising strategy to reduce 
speeding, C-studies, 
https://www.stir.ac.uk/media/schools/
management/documents/Case-3-
Reduce-Speeding.pdf, truy cập ngày 
20/11/2015. 
16. Parker D, Manstead ASR, Stradling 
SG, Reason JT, Baxter JS (1992), 
“Intention to commit driving 
violations: An application of the 
theory of planned behaviour”, Journal 
of Applied Psychology, 77(1): 94-101. 
17. Parker D, Stradling SG, Manstead 
ASR (1996), “Modifying beliefs and 
attitudes to exceeding the speed limit: 
An intervention study based on the 
theory of planned behaviour”, Journal 
of Applied Social Psychology, 26(1): 
1-19. 
18. Spencer Hazel (2011), Social 
Behaviour in Public Transportation, 
Ph.D. student at Roskilde University, 
Roskilde University. 
19. Tam NM (2010), Drinking and 
Driving in Vietnam: Perceptions, risk 
and cost effective interventions, 
Queensland University of Technology, 
School of Population Health. 
20. Trần Minh Thư (2015), Nâng cao vai 
trò của lực lượng Cảnh sát giao thông 
nhằm đảm bảo trật tự, an toàn giao 
thông trong tình hình mới, 
D=42, truy cập ngày 10/3/2016. 

File đính kèm:

  • pdfcac_nghien_cuu_ve_vai_tro_cua_truyen_thong_dai_chung_doi_voi.pdf