Truyền hình bằng tiếng Tày-Nùng ở Việt Nam

Tóm tắt: Hoạt động truyền hình bằng tiếng Tày - Nùng là một hoạt động truyền thông cơ bản,

phục vụ được rất đông đảo đồng bào dân tộc thiểu số (DTTS). Hình thức và nội dung chương trình

truyền hình tiếng Tày - Nùng của các đài phát thanh - truyền hình (PT-TH) đã có nhiều đổi mới,

song vẫn còn tồn tại những bất cập, hạn chế. Vì vậy, cần có những giải pháp nâng cao chất lượng

các chương trình truyền hình tiếng Tày - Nùng ở Việt Nam hiện nay

Truyền hình bằng tiếng Tày-Nùng ở Việt Nam trang 1

Trang 1

Truyền hình bằng tiếng Tày-Nùng ở Việt Nam trang 2

Trang 2

Truyền hình bằng tiếng Tày-Nùng ở Việt Nam trang 3

Trang 3

Truyền hình bằng tiếng Tày-Nùng ở Việt Nam trang 4

Trang 4

Truyền hình bằng tiếng Tày-Nùng ở Việt Nam trang 5

Trang 5

Truyền hình bằng tiếng Tày-Nùng ở Việt Nam trang 6

Trang 6

Truyền hình bằng tiếng Tày-Nùng ở Việt Nam trang 7

Trang 7

Truyền hình bằng tiếng Tày-Nùng ở Việt Nam trang 8

Trang 8

Truyền hình bằng tiếng Tày-Nùng ở Việt Nam trang 9

Trang 9

pdf 9 trang xuanhieu 6600
Bạn đang xem tài liệu "Truyền hình bằng tiếng Tày-Nùng ở Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Truyền hình bằng tiếng Tày-Nùng ở Việt Nam

Truyền hình bằng tiếng Tày-Nùng ở Việt Nam
g Tày - Nùng của Đài PT-TH Lạng các chương trình truyền hình tiếng Tày - 
Sơn chỉ phát các phóng sự. Mỗi chương Nùng chưa phong phú, còn vắng bóng 
trình phát 6-7 phóng sự. Những phóng sự những thể loại có chất tư duy, trí tuệ, lí luận 
này phục vụ cho các chuyên mục cụ thể, cao như nhóm báo chí chính luận (xã luận, 
ngoài ra có thêm một chương trình văn bình luận, điều tra, phê bình) hay các thể 
nghệ 30 phút. Chương trình truyền hình loại có tính sinh động hơn (tiểu phẩm báo 
tiếng Tày - Nùng của Đài PT-TH Cao Bằng chí, câu chuyện báo chí...). Kết cấu chương 
và Đài PT-TH Bắc Kạn dùng cả thể loại tin trình của Đài PT-TH Lạng Sơn phong phú, 
và thể loại phóng sự. Ở Đài PT-TH Cao sáng rõ; ở các đài còn lại, chưa thật sáng rõ, 
Bằng, mỗi chương trình có khoảng 3-4 tin, còn khiến người xem khó theo dõi. 
114 
 Thứ ba, về hình thức lời bình. Qua khảo tâm, tỉ lệ người được hỏi đánh giá tích cực 
sát, ngữ âm không được nhiều người quan dưới 50% (Bảng 2). 
Bảng 1: Các chuyên mục trong truyền hình tiếng Tày - Nùng của Đài PT-TH Lạng Sơn [5] 
STT Tên chuyên mục (tiếng Việt) Tên chuyên mục (tiếng Tày- Nùng) Phân bố 
 1 Đảng trong cuộc sống hôm nay Tẳng có Đảng chang slì tối mấư Thứ ba 
 2 Thông tin thị trường vùng cao Pỉ noọng chang bản khai dự cúa cái Thứ ba 
 3 Gốc tích quê hương Cốc co bản cỏn Thứ ba 
 4 Pháp luật với bà con Pỉ noọng xa chắc mừa pháp luật Thứ ba 
 5 Tiếng nói từ thôn bản Slim châư cúa cần kha bản Thứ năm 
 6 Cùng làm nông nghiệp Xày căn đăm chay, khun chượng Thứ năm 
 7 Nét đẹp làng quê Bản cỏn đây mjảc Thứ năm 
 8 Những bài thuốc hay trong dân gian Ký co nhả chỏi pỉnh Thứ năm 
 9 Nông thôn đổi mới Bản cỏn lầu tối mấư Thứ bảy 
 10 Vì chủ quyền an ninh biên giới Ngòi chướng đin tỉ piên chái Thứ bảy 
 11 Ẩm thực xứ Lạng Ký thình cuá kin Xứ Lạng Thứ bảy 
 12 Gương sáng bản làng Đuông bjoóc đây cúa bản (Boỏng Thứ bảy 
 cương cúa bản ) 
Bảng 2: Nhận xét về giọng của phát thanh viên trong các chương trình truyền hình tiếng Tày - 
Nùng [5] 
 Thực trạng/ Tốc độ Giọng chuẩn Hay Có pha giọng 
 Các nhóm 
 Nhanh Chậm Vừa Đúng Không Đúng Không Đúng Không 
 Đài VTV5 18 11 33 49 1 30 3 34 12 
 Đài tỉnh 17 9 35 48 8 51 3 23 18 
 Tổng 2 nhóm 35 20 68 97 9 81 6 57 30 
 Tỉ lệ (%) 17 9,5 32 46 4,3 39 2,9 27 14 
 Ở các đài PT-TH tỉnh, giọng phát thanh thanh viên người Tày hay người Nùng ở 
viên gần gũi với người dân hơn nên nhìn đây đều không còn thuần là âm Tày hay 
chung được đánh giá tốt hơn. Đa số người Nùng nữa, mà đã bị pha giữa hai ngôn ngữ, 
được phỏng vấn cho rằng, giọng của phát hoặc đã pha giọng Kinh. 
 115 
Khoa học xã hội Việt Nam, số 7 - 2019 
Bảng 3: Nhận xét về từ ngữ trong các chương trình truyền hình tiếng Tày - Nùng [5] 
 Dễ hiểu Chính xác Nhiều từ ngữ 
Thực trạng/ vay mượn 
 Các đài Đúng Không Đúng Không Đúng Không 
 đúng đúng đúng 
VTV5 56 7 67 4 51 7 
Đài tỉnh 60 2 42 1 43 5 
Tổng 2 nhóm 116 9 109 5 94 12 
Tỉ lệ (%) 55,2 4,3 52,0 2,4 44,8 5,7 
 Bảng 3 cho thấy, hầu hết người được hỏi nhưng đài trung ương lại có thế mạnh về 
đều cho rằng, từ ngữ vay mượn trong các tính chính xác trong việc sử dụng từ ngữ. 
chương trình còn nhiều. Xét theo cấp truyền Phương diện được đồng bào Tày, Nùng 
thông thì đài địa phương có thế mạnh hơn đánh giá cao nhất là việc dùng câu. 
về tính dễ hiểu và ít từ ngữ vay mượn, 
Bảng 4: Tự đánh giá của người làm chương trình truyền hình tiếng Tày - Nùng về cách sử dụng 
ngôn ngữ [5] 
 Các phương diện Tốt Trung bình Chưa tốt 
 Ngữ âm a. Độ chính xác 4 7 0 
 b.Tính truyền cảm 5 6 0 
 Từ vựng a.Từ ngữ vay mượn 0 10 1 
 b.Tính sinh động, giàu hình ảnh 4 6 1 
 Câu - ngữ pháp a. Đúng ngữ pháp 8 2 1 
 b. Câu ngắn gọn, súc tích 5 5 1 
 Diễn ngôn a. Chặt chẽ 4 6 1 
 b. Kết cấu không đơn điệu 3 7 1 
 Phong cách a. Phù hợp với cách nói năng của 7 3 1 
 đồng bào 
 b. Phù hợp với nội dung nói 6 4 1 
 Tổng 46/110 56/110 8/110 
 Tỉ lệ (%) 41,8 50,9 7,3 
116 
 Nguyễn Thị Nhung 
 Bảng 4 cho thấy, những người được hỏi 2.2. Nội dung của các chương trình truyền 
không đánh giá cao hình thức của lời bình hình tiếng Tày - Nùng 
trong các chương trình mà mình sản xuất. 
Trong đó, tiêu chí được đánh giá cao hơn Nội dung chương trình truyền hình tiếng 
cả cũng là tính đúng ngữ pháp của câu, Tày - Nùng của Đài PT-TH Lạng Sơn đã 
tính phù hợp cách nói năng của đồng bào mang tính toàn diện. Tuy nhiên, trong 
 chương trình truyền hình tiếng Tày - Nùng 
ở mặt phong cách ngôn ngữ. Đây là sự 
 của các đài tỉnh nói chung, nội dung nổi bật 
đánh giá thống nhất với sự đánh giá của 
 được thể hiện là thông tin về mọi mặt của 
người tiếp nhận. Các Đài PT-TH Lạng 
 địa phương. Đài PT-TH Lạng Sơn và Đài 
Sơn, Cao Bằng có dùng phụ đề tiếng Việt, PT-TH Bắc Kạn có thêm chương trình văn 
điều này tạo điều kiện cho những người nghệ. Ở những đài khác, việc phổ biến kiến 
Tày - Nùng chưa thạo tiếng mẹ đẻ có thể thức, thông tin về chính sách, pháp luật 
hiểu được nội dung chương trình, đối chưa được chú trọng. Các thông tin trên 
chiếu phần chữ với phần lời để trau dồi cùng những thông tin thời sự đất nước, kinh 
tiếng mẹ đẻ. Tuy vậy, Đài PT-TH Bắc Kạn nghiệm làm giàu, kĩ năng sống có thể được 
lại thiếu phần phụ đề này. thể hiện rải rác qua các tin bài (Bảng 5). 
Bảng 5: Hứng thú của người tiếp nhận với nội dung các chương trình truyền hình tiếng Tày - 
Nùng [5] 
 Mức độ/ Rất thích Thích Không thích 
 Nội dung Số lượng Tỉ lệ Số lượng Tỉ lệ Số lượng Tỉ lệ 
 (%) (%) (%) 
 Tin tức thời sự đất nước 58 27,6 44 21,0 0 
 Tin tức thời sự địa phương 60 28,6 39 18,6 1 0,1 
 Kĩ thuật nông nghiệp 42 20,0 40 19,0 5 0,6 
 Kinh nghiệm làm giàu 44 21,0 40 19,0 5 0,6 
 Chính sách, pháp luật 51 24,3 43 20,5 1 0,1 
 Sức khỏe 61 29,0 54 25,7 0 0,0 
 Kĩ năng sống 41 19,5 38 18,1 4 0,5 
 Văn hóa, văn nghệ 60 28,6 33 15,7 0 0,0 
 Tổng 417/840 49,6 331/840 39,4 16/840 1,9 
 Có tới 89% người được hỏi vẫn yêu thích thời sự đất nước là những nội dung được yêu 
các nội dung trong chương trình, hơn nửa thích hơn cả. Kĩ thuật nông nghiệp, kinh 
trong số đó còn rất thích chương trình này. nghiệm làm giàu, kĩ năng sống là những nội 
Tri thức về cách bảo vệ sức khỏe; văn hóa, dung chỉ liên quan hoặc chỉ phù hợp với một 
văn nghệ; tin tức thời sự địa phương; tin tức bộ phận người dân (người làm nông nghiệp, 
 117 
Khoa học xã hội Việt Nam, số 7 - 2019 
người còn sức lao động, hay những người thì nội dung thông tin của chương trình 
còn trẻ) nên số người yêu thích ít hơn. chưa phải đã có được chất lượng cao nhất 
 Tuy nhiên, theo những người làm (Bảng 6). 
chương trình truyền hình tiếng Tày - Nùng, 
Bảng 6: Tự đánh giá của người làm chương trình truyền hình tiếng Tày - Nùng về chất lượng nội 
dung các chương trình [5] 
 Yêu cầu Tốt Trung Chưa 
 bình tốt 
 a- Hướng về cơ sở, chú trọng sự kiện, thông tin thời sự và những 6 5 0 
 thông tin về đời sống dân sinh của đồng bào DTTS 
 b- Tuyên truyền các chủ trương, chính sách dân tộc và việc thực 8 3 0 
 hiện chính sách dân tộc, gắn với mục tiêu phát triển kinh tế, xã 
 hội, đảm bảo quốc phòng, an ninh 
 c- Thông tin chỉ dẫn mang tính khoa giáo về khuyến nông, 6 5 0 
 khuyến lâm, khuyến ngư, y tế, sức khỏe gắn với địa phương, đặc 
 điểm văn hóa của đồng bào 
 d- Nhìn nhận, đánh giá, giải quyết các vấn đề phù hợp với đặc 3 6 2 
 điểm tâm lí, truyền thống dân tộc, tín ngưỡng, tôn giáo của từng 
 đối tượng đồng bào 
 e- Chú trọng biểu dương, nhân rộng các điển hình tiên tiến, nhân 9 2 0 
 tố tích cực trên các lĩnh vực đời sống trong vùng dân tộc 
 f- Ca nhạc, giải trí có chất lượng, phù hợp nhu cầu của đồng bào 5 4 2 
 Tổng 37/66 25/66 4/66 
 Tỉ lệ (%) 56,1 37,9 6,0 
 Nhìn chung, nội dung biểu dương, nhân mang tính khoa giáo về khuyến nông, 
rộng các điển hình tiên tiến, nhân tố tích khuyến lâm, khuyến ngư, y tế, sức khỏe gắn 
cực được chú trọng. Tiếp theo là việc tuyên với địa phương, đặc điểm văn hóa của đồng 
truyền các chủ trương, chính sách dân tộc bào mới chỉ đạt được phần nào. Tiêu chí ca 
và việc thực hiện chính sách dân tộc, gắn nhạc, giải trí có chất lượng, phù hợp nhu cầu 
với mục tiêu phát triển kinh tế, xã hội, đảm của đồng bào cũng còn hạn chế. 
bảo quốc phòng, an ninh. Việc nhìn nhận, 
đánh giá, giải quyết các vấn đề phù hợp với 
đặc điểm tâm lí, truyền thống dân tộc, tín 3. Những thách thức truyền hình tiếng 
ngưỡng, tôn giáo của từng đối tượng đồng Tày - Nùng 
bào còn chưa thật tốt. Việc hướng về cơ sở, 
chú trọng sự kiện, thông tin thời sự và Thứ nhất, kinh phí hạn chế. Hiện nay, các 
những thông tin về đời sống dân sinh của nhà đài đang chuyển sang cơ chế tự chủ về 
đồng bào DTTS và việc thông tin chỉ dẫn tài chính, điều kiện kinh phí cho việc sản 
118 
 Nguyễn Thị Nhung 
xuất các chương trình, bồi dưỡng và phát phóng viên người Tày, Nùng có thể viết tin, 
triển nhân lực của các phòng trong mỗi đài bài bằng ngôn ngữ của dân tộc mình, để sự 
đều hạn chế. Các phòng Tiếng dân tộc càng diễn đạt chuẩn hơn, mềm mại hơn, và bớt 
khó khăn hơn vì các phòng này hầu như được khâu dịch thuật. 
không có điều kiện cải thiện thu nhập, trong 
khi cần những đầu tư đáng kể cho việc đi 
lấy tin bài ở địa bàn vùng cao. Đây là 4. Giải pháp nâng cao chất lượng truyền 
nguyên nhân khiến chương trình truyền hình tiếng Tày - Nùng 
hình tiếng Tày – Nùng không được mở rộng 
về thời lượng, tần suất, không được ưu tiên Đối với các cấp lãnh đạo truyền thông 
về khung giờ phát sóng. Không có lương 
 DTTS, cần có sự nhận thức rõ và đúng đắn 
chi trả khiến biên chế người làm việc bị thu 
 về tầm quan trọng của chương trình, trên cơ 
hẹp, công việc căng thẳng, người làm ít 
được bồi dưỡng chuyên môn. Các đài thiếu sở đó có được những chính sách phù hợp. Ở 
phóng viên người Tày, Nùng để có thể lựa cấp trung ương có thể có chương trình 
chọn, nhìn nhận, đánh giá, giải quyết các chuyên Tày và chuyên Nùng nhưng ở cấp 
vấn đề phù hợp với đặc điểm tâm lí, truyền tỉnh trở xuống, nên có chủ trương duy trì, 
thống của đồng bào. Thậm chí có đài, phát mở rộng truyền hình tiếng Tày - Nùng tới 
thanh viên không có điều kiện dịch trước, tất cả các tỉnh có đông đảo người của cả hai 
phải đọc từ tiếng Việt sang tiếng Tày - dân tộc này. Vì việc dùng ngôn ngữ chung 
Nùng trong lúc lên sóng. Chế độ đãi ngộ giúp tiết kiệm nhân lực, vật lực và phục vụ 
thấp cũng dẫn tới tình trạng năng lực, tâm được đông đảo đồng bào của hai dân tộc 
huyết của người làm không được phát huy Tày - Nùng cùng nhiều dân tộc khác sống 
tốt, kéo theo những hạn chế về chất lượng, xen kẽ, biết tiếng Tày - Nùng. Nên khuyến 
hiệu quả chương trình. khích mở rộng truyền hình tiếng Tày - 
 Thứ hai, tiếp nhận chương trình bằng 
 Nùng tới cấp huyện. Kết quả khảo sát cho 
tiếng mẹ đẻ. Thách thức đặt ra với truyền 
 thấy, truyền hình nói riêng, truyền thông 
hình tiếng Tày - Nùng là sự mai một ngôn 
 dân tộc nói chung càng ở cấp thấp càng có 
ngữ Tày, Nùng ở lớp trẻ, chữ viết chưa phổ 
 hiệu quả vì sự gần gũi của ngôn ngữ, sự 
biến. Do không nắm vững ngôn ngữ nên 
 thiết thực của nội dung. 
nhiều người, nhất là lớp trẻ không mặn mà 
tiếp nhận các chương trình truyền hình bằng Đầu tư hơn nữa trang thiết bị kỹ thuật, 
tiếng mẹ đẻ. Các biên dịch viên, phát thanh phương tiện làm việc cho các đài, đặc biệt 
viên chủ yếu cũng là những người còn trẻ, là cho các phòng Tiếng dân tộc; tăng cường 
vốn ngôn ngữ mẹ đẻ còn hạn chế, hầu hết chất lượng phát sóng, diện phủ sóng tới 
không biết chữ Tày - Nùng, lại từng thoát li vùng sâu, vùng xa cho các đài. 
bản làng để đi học tập lâu dài; trong khi, để Có chế độ đãi ngộ phù hợp với tính chất 
làm tốt chương trình, họ còn phải thạo cả công việc của người làm chương trình Tiếng 
hai thứ tiếng Tày và Nùng. Người kiểm dân tộc; quan tâm hơn tới công tác đào tạo, 
duyệt chương trình không biết tiếng Tày - bồi dưỡng nghiệp vụ báo chí cho họ. 
Nùng thường đòi hỏi tin bài phải được viết Có hình thức giảng dạy, bồi dưỡng tiếng 
bằng tiếng Việt. Điều đó hạn chế việc mẹ đẻ cho người DTTS, trong đó có lớp trẻ 
 119 
Khoa học xã hội Việt Nam, số 7 - 2019 
người Tày, Nùng; và người làm công tác nhiều bất cập. Nhiều chương trình truyền 
truyền thông bằng tiếng Tày - Nùng. hình tiếng Tày - Nùng thiếu sự đa dạng, 
 Đối với các Đài PT-TH, cần sự quan tâm chất lượng một số chương trình chưa cao, 
đầu tư hơn nữa của lãnh đạo Đài đối với tính hiệu quả và tương tác còn yếu. Các cấp 
chương trình và sự nỗ lực của mỗi người có thẩm quyền, các ngành có liên quan cần 
thực hiện. Cần ưu tiên về biên chế phóng thực hiện nhiều giải pháp mang tính đồng 
viên, biên dịch viên, phát thanh viên người bộ để tăng cường tính hiệu quả, của các 
Tày, Nùng cho phòng Tiếng dân tộc, quan chương trình truyền hình tiếng Tày - Nùng, 
tâm xây dựng đội ngũ kiểm thính viên, góp phần vào sự phát triển bền vững vùng 
cộng tác viên cho chương trình. Ưu tiên về đồng bào DTTS trên đất nước Việt Nam. 
khung giờ phát sóng để bà con có thể theo 
dõi được, và tăng cường tần suất, thời 
lượng hơn nữa cho các chương trình truyền Chú thích 
hình tiếng Tày - Nùng. Cần có sự đầu tư 
hơn cho việc thực hiện chương trình theo *
các thể loại, hình thức phong phú; tăng Bài viết là kết quả nghiên cứu Đề tài cấp Nhà 
cường các hình thức tương tác; tăng cường nước: Hoạt động truyền thông bằng ngôn ngữ dân 
tính chuẩn mực, tính hấp dẫn của việc sử tộc thiểu số ở Việt Nam, mã số: ĐTĐLXH-02/18. 
dụng ngữ âm, từ ngữ, diễn đạt câu để tạo sự 
sinh động, mới mẻ cho các chương trình. 
Tăng cường tính chuyên biệt cho nội dung, Tài liệu tham khảo 
bổ sung các chuyên mục, đổi mới nội dung 
bằng cách giảm bớt các tin lễ tân, hội họp [1] Trần Trí Dõi (2016), Ngôn ngữ các dân tộc 
hoặc nếu có, chỉ nên đưa ngắn gọn, đưa thiểu số ở Việt Nam, Nxb Đại học Quốc gia Hà 
những thông tin thực sự có ý nghĩa với 
 Nội, Hà Nội. 
công chúng, phù hợp với tâm lý tiếp nhận 
của đồng bào; tăng cường các tin có vấn đề, [2] Nguyễn Văn Dững (2012), Cơ sở lý luận báo 
được công chúng quan tâm; đi sâu phản ánh chí, Nxb Lao động, Hà Nội. 
những vấn đề khó khăn, bức xúc trong đời [3] Lí Thị Hà (2018), Đề tài khoa học “Một số đặc 
sống xã hội vùng đồng bào Tày - Nùng; có điểm ngôn ngữ trong chương trình Tiếng Tày - 
những đề xuất, kiến nghị để các cấp các Nùng của Đài phát thanh - truyền hình tỉnh 
ngành có liên quan có giải pháp tháo gỡ, Cao Bằng”, Trường Đại học Sư phạm, Đại học 
góp phần đảm bảo an sinh xã hội, nâng cao Thái Nguyên. 
đời sống vật chất, tinh thần cho đồng bào [4] Nguyễn Hữu Hoành (Chủ biên) (2012), Ngôn 
DTTS. 
 ngữ, chữ viết các dân tộc thiểu số ở Việt Nam 
 (Những vấn đề chung), Nxb Từ điển bách 
5. Kết luận khoa, Hà Nội. 
 [5] Nguyễn Thị Nhung (2018), Khảo sát, điều tra 
Các chương trình truyền hình tiếng Tày - về truyền hình tiếng Tày - Nùng tại hai tỉnh 
Nùng đã đáp ứng được những yêu cầu cơ Lạng Sơn và Cao Bằng. 
bản của đồng bào DTTS. Tuy nhiên, trên [6] Viện dân tộc học (2014), Các dân tộc ít người 
thực tế truyền hình tiếng Tày - Nùng còn ở Việt, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
120 
121 

File đính kèm:

  • pdftruyen_hinh_bang_tieng_tay_nung_o_viet_nam.pdf