Văn hoá & Báo chí: Quan hệ đồng hành trong thế giới hội nhập

Thời kỳ hội nhập, cụm từ “văn hoá” được sử dụng rất phổ biến ví dụ: văn hoá giao thông,

văn hoá học đường, văn hoá kinh doanh, văn hoá mạng đủ các loại văn hoá. Tuy nhiên, cách sử

dụng “văn hóa” mang cả hai lớp nghĩa: tích cực và tiêu cực. “Văn hóa phong bì” là một ví dụ. Nói

đến cụm từ “văn hoá phong bì” ắt là phải kính biếu, kính gửi rồi. “Văn hoá phong bì” có nhiều

người phê phán nhưng nó cứ tồn tại, trên thực tế nếu thiếu nó thật khó sống. Ví như tiền thù lao

cho những người tham gia hội thảo, ban tổ chức cho nó vào phong bao và trao lại cho các tác giả.

Việc này có thể nói là việc làm có văn hoá. Tuy nhiên, tiền là thứ bẩn đệ nhất theo nghĩa đen của

nó. Các nhà khoa học về vi trùng đã làm cuộc khảo sát và đánh giá: tiền có nhiều vi trùng hơn bồn

cầu vệ sinh. Phong bì kiểu “lót tay” hay “bôi trơn” khá phổ biến hiện nay có vẻ như không phải là

văn hoá. Hãy hình dung: kẻ đưa phong bao bằng hai tay với dáng điệu kính cẩn, người nhận từ

chối nhẹ nhàng, về hình thức vẻ như văn hoá, nhưng việc “lót tay” hay “bôi trơn” hoàn tất thì bản

chất nó lộ ra lại là cái trái với văn hoá. Nói cách khác, cũng là phong bì, phong bao nhưng có cái

là văn hoá, có cái lại phản văn hoá. Bởi thế nên “Văn hoá truyền thông trong thời kỳ hội nhập”

là đề tài khá nhạy cảm và phong phú. Vì nó nhạy cảm và phong phú nên càng cần phải đàm thảo.

Né tránh là cũ, là lạc hậu, thì không thể nói gì đến đổi mới. Nếu xét về dư luận xã hội (đây là quan

điểm cá nhân của tôi, tôi chưa thực hiện cuộc điều tra xã hội học nào về vấn đề này) thì có nhiều

chiều, ít nhất là hai chiều: Chiều ồn ào có vẻ mạnh mẽ, chiều sâu lắng có vẻ khiêm nhường. Chiều

ồn ào thường là tiếng kêu lo lắng nhiều khi thái quá: báo chí, truyền thông làm hỏng hết văn hoá

rồi. Người theo luồng dư luận này viện dẫn: chương trình văn nghệ thì hở hang, ngôn ngữ sử dụng

đôi khi không góp phần giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt mà còn “nối giáo” cho kiểu ngôn ngữ

“sát thủ đầu mưng mủ”. Quảng cáo cái gì cũng nhất, làm cho trẻ em Việt Nam không thích cái

bình thường, chỉ thích cái phi thường. Rồi thì quảng cáo quần lót, tã lót, vệ sinh bồn cầu, đánh vi

khuẩn, giết vi trùng vào giờ đa phần khán giả đang dùng bữa. “Làn da mịn màng”, “tự tin, khoáicảm”, “chống mãn dục nam”, “ cả nhà đều vui” được quảng cáo cho tất cả các đối tượng nam

phụ, lão, ấu cùng xem. Chuyện ấy theo chúng tôi là có, nhưng nói truyền thông làm hỏng hết văn

hoá rồi thì có phần chưa xác đáng. Báo chí, truyền thông thời hội nhập đã chắp cánh cho văn

hoá Việt Nam bay cao, bay xa đó sao? Rồi, chẳng đã là cầu nối cho văn hoá thế giới tới Việt

Nam đều đều đó sao? Không ba phải, nhưng cũng không thể áp đặt quan điểm theo số đông hay

theo “âm lượng còi to cho đúng”, hội thảo là để tìm ra cơ sở khoa học và thực tiễn nhằm mục đích

như ban tổ chức đã định là: “làm rõ và nâng cao nhận thức về vị trí, vai trò, nội dung và những

vấn đề đặt ra trong thực tiễn về yếu tố văn hoá trong hoạt động báo chí, truyền thông đại chúng

Việt Nam hiện nay”. Điều đó khẳng định Hội thảo về đề tài này là đúng đắn, là cần thiết.

Văn hoá & Báo chí: Quan hệ đồng hành trong thế giới hội nhập trang 1

Trang 1

Văn hoá & Báo chí: Quan hệ đồng hành trong thế giới hội nhập trang 2

Trang 2

Văn hoá & Báo chí: Quan hệ đồng hành trong thế giới hội nhập trang 3

Trang 3

Văn hoá & Báo chí: Quan hệ đồng hành trong thế giới hội nhập trang 4

Trang 4

Văn hoá & Báo chí: Quan hệ đồng hành trong thế giới hội nhập trang 5

Trang 5

pdf 5 trang xuanhieu 2740
Bạn đang xem tài liệu "Văn hoá & Báo chí: Quan hệ đồng hành trong thế giới hội nhập", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Văn hoá & Báo chí: Quan hệ đồng hành trong thế giới hội nhập

Văn hoá & Báo chí: Quan hệ đồng hành trong thế giới hội nhập
 VĂN HOÁ – BÁO CHÍ: QUAN H Ệ ĐỒ NG HÀNH 
 TRONG TH Ế GI ỚI H ỘI NH ẬP 
 TS. Nguy ễn Vi ết Ch ức 
 Th i k  h i nh p, c m t  “v n hoá” ưc s  d ng r t ph  bi n ví d : v n hoá giao thông, 
vn hoá h c ưng, v n hoá kinh doanh, v n hoá m ng các lo i v n hoá. Tuy nhiên, cách s  
dng “v n hóa” mang c  hai l p ngh a: tích c c và tiêu c c. “V n hóa phong bì” là m t ví d . Nói 
n c m t  “v n hoá phong bì” t là ph i kính bi u, kính g i r i. “V n hoá phong bì” có nhi u 
ng ưi phê phán nh ưng nó c  t n t i, trên th c t  n u thi u nó th t khó s ng. Ví nh ư ti n thù lao 
cho nh ng ng ưi tham gia h i th o, ban t  ch c cho nó vào phong bao và trao l i cho các tác gi . 
Vi c này có th  nói là vi c làm có v n hoá. Tuy nhiên, ti n là th  b n  nh t theo ngh a en c a 
nó. Các nhà khoa h c v  vi trùng ã làm cu c kho sát và ánh giá: ti n có nhi u vi trùng h ơn b n 
cu v  sinh. Phong bì ki u “lót tay” hay “bôi tr ơn” khá ph  bi n hi n nay có v  nh ư không ph i là 
vn hoá. Hãy hình dung: k  ưa phong bao b ng hai tay v i dáng iu kính c n, ng ưi nh n t  
ch i nh  nhàng, v  hình th c v  nh ư v n hoá, nh ưng vi c “lót tay” hay “bôi tr ơn” hoàn t t thì b n 
ch t nó l  ra l i là cái trái v i v n hoá. Nói cách khác, c ng là phong bì, phong bao nh ưng có cái 
là v n hoá, có cái l i ph n v n hoá. B i th  nên “ Văn hoá truy ền thông trong th ời k ỳ h ội nh ập” 
là  tài khá nh y c m và phong phú. Vì nó nh y c m và phong phú nên càng c n ph i àm th o. 
Né tránh là c , là l c h u, thì không th  nói gì n  i m i. N u xét v  d ư lu n xã h i ( ây là quan 
im cá nhân c a tôi, tôi ch ưa th c hi n cu c iu tra xã h i h c nào v  v n  này) thì có nhi u 
chi u, ít nh t là hai chi u: Chi u n ào có v  m nh m , chi u sâu l ng có v  khiêm nh ưng. Chi u 
n ào th ưng là ti ng kêu lo l ng nhi u khi thái quá: báo chí, truy n thông làm h ng h t v n hoá 
ri. Ng ưi theo lu ng d ư lu n này vi n d n: ch ươ ng trình v n ngh  thì h  hang, ngôn ng  s  d ng 
ôi khi không góp ph n gi  gìn s  trong sáng c a ti ng Vi t mà còn “n i giáo” cho ki u ngôn ng  
“sát th   u m ưng m ”. Qu ng cáo cái gì c ng nh t, làm cho tr  em Vit Nam không thích cái 
bình th ưng, ch  thích cái phi th ưng. R i thì qu ng cáo qu n lót, tã lót, v  sinh b n c u, ánh vi 
khu n, gi t vi trùng vào gi  a ph n khán gi  ang dùng b a. “Làn da m n màng”, “t  tin, khoái 
cm”, “ch ng mãn d c nam”, “ c  nhà u vui”ưc qu ng cáo cho t t c  các  i t ưng nam 
ph , lão, u cùng xem. Chuy n y theo chúng tôi là có, nh ưng nói truy n thông làm h ng h t v n 
hoá r i thì có ph n ch ưa xác áng. Báo chí, truy ền thông th ời h ội nh ập đã ch ắp cánh cho v ăn 
hoá Vi ệt Nam bay cao, bay xa đó sao? R ồi, ch ẳng đã là c ầu n ối cho v ăn hoá th ế gi ới t ới Vi ệt 
Nam đều đề u đó sao? Không ba ph i, nh ưng c ng không th  áp  t quan im theo s  ông hay 
theo “âm l ưng còi to cho úng”, h i th o là  tìm ra c ơ s  khoa h c và th c ti n nh m m c ích 
nh ư ban t  ch c ã nh là: “làm rõ và nâng cao nh n th c v  v  trí, vai trò, n i dung và nh ng 
vn   t ra trong th c ti n v  y u t  v n hoá trong ho t  ng báo chí, truy n thông  i chúng 
Vi t Nam hi n nay”. iu ó kh ng  nh H i th o v   tài này là úng n, là c n thi t. 
 Nói theo l i nói dân gian thì v n hoá là món n tinh th n không th  thi u ưc. Trong th i 
hi nh p này, báo chí, truy n thông  i chúng c ng là món n tinh th n không th  thi u ưc. T  
ó mà suy: báo chí, truy n thông ích th  là v n hoá r i. B n thân nó là v n hoá thì nó có i m t 
mình trong th i h i nh p này nó c ng  ng hành phát tri n cùng v n hoá. Trên th c t  nó ch ng 
bao gi  i m t mình c . N u ti p c n theo l i thao tác nghi p v  ta th y ho t  ng báo chí, truy n 
thông i chúng xét c  hình th c, n i dung, xét các lo i hình báo nói, báo hình, báo in hay báo 
mng  u là ho t  ng sáng t o. Là ho t  ng sáng t o nên có th  x p nó vào v n hoá. Ông F. 
Mayor - T ng Giám  c UNESCO ưa ra nh ngh a v n hoá nh ư sau: “V n hoá là t ng th  s ng 
ng các ho t  ng sáng t o trong quá kh  và trong hi n t i. Qua các th  k  ho t  ng sáng t o y 
ã hình thành nên m t h  th ng giá tr , các truy n th ng và các th  hi u – nh ng y u t  xác  nh 
c tính riêng c a m i dân t c”. N u em “áp vào” t ng th  các ho t  ng sáng t o c a báo chí, 
truy n thông  i chúng c a Vi t Nam trong quá kh  và trong hi n t i, thì các ho t  ng sáng t o 
y c ng ã t o nên nh ng giá tr , các truy n th ng và th  hi u mang b n s c c a t ng c ơ quan báo 
chí c ng như c a c  h  th ng báo chí, truy n thông  i chúng Vi t Nam. 
 Nói tóm l i xét  góc  dân gian hay khoa h c bác h c thì báo chí, truy n thông  i chúng 
cng là m t b  ph n quan tr ng c a V n hoá. Ho t  ng c a nó có thu c tính là ho t  ng sáng 
to, b i th nó có th  ưc x p vào h  th ng các ho t  ng v n hoá. Và ươ ng nhiên khi n m trong 
h th ng các ho t  ng v n hoá nó ph i tuân th  các yêu c u c a h  th ng y. Nhân ây, nói thêm 
mt chút v  ho t  ng v n hoá và giá tr  v n hoá. M t cách t ươ ng i có th hi u: Giá tr  v n hoá là 
nh ng giá tr  v t ch t và tinh th n ưc cá nhân ho c m t c ng  ng t o nên, ưc c ng  ng y và 
có th  m t c ng  ng l n h ơn th a nh n, ng ưng m , tôn vinh, sùng kính m t cách t  nguy n. B i 
th  giá tr  v n hoá th ưng ưc xây d ng trong quá kh  và có ý ngh a lâu b n c n ưc gi  gìn và 
phát huy trong hi n t i. Ng ưc l i, ho t  ng v n hoá th ưng là nh ng ho t  ng di n ra trong hi n 
ti, áp ng nhu c u  i s ng v t ch t và tinh th n c a c ng  ng. Nhìn chung nó là ho t  ng sáng 
to, k  c  nh ng ho t  ng mang tính k  cu c nh ư ch ng èn k t hoa, treo c , gi ng bi u ng , b ng 
rôn c ng  u ít nhi u mang tính sáng t o. Tuy nhiên, không ph i t t c  các ho t  ng v n hoá d u 
có tính sáng t o y  u t o nên giá tr  v n hoá. Nh ưng d u không t o nên giá tr  v n hoá thì nh ng 
ho t  ng y c ng v n là nh ng nhu c u chính áng v   i s ng v t ch t c ng nh ư tinh th n c a 
cng  ng trong hi n t i. V y là, giá tr  v n hoá hay ho t  ng v n hoá  u có ý ngh a thi t th c 
vi  i s ng ươ ng i. Ch  có iu, nh ng ho t  ng y không trái v i nh ng chu n m c v n hoá 
ã i vào ti m th c c ng  ng, có giá tr  nh ư b  iu ch nh hành vi c a t ng thành viên c ng nh ư c  
cng  ng, nó s  góp cho  i s ng v n hoá thêm phong phú. Ng ưc l i, nh ng ho t  ng làm l ch 
chu n v n hoá y th ưng gây t n th ươ ng n m t s  thành viên, th m chí c  c ng  ng. Nh ng 
ho t  ng làm l ch chu n v n hoá truy n th ng không ph i t t c   u x u, c ng có cái thúc  y 
ho c manh nha cho cái m i ra  i phù h p h ơn và thi t th c hơn. Tuy nhiên, l ch chu n v n hoá 
làm t n th ươ ng n tình c m,  o  c c a m t s  thành viên c ng  ng ho c c  c ng  ng  u ph i 
ưc xem xét m t cách c n tr ng. Không v  cái m i, v  quy n l c hay ti n b c mà b t ch p t n h i 
v v n hoá. UNESCO ã c nh báo:  âu phát tri n kinh t  mà không quan tâm n y u t  v n hoá 
s gây ra nh ng h  l y không ch   i v i v n hoá mà còn c  v i kinh t  - xã h i. C ơ quan báo chí, 
truy n thông và nh ng ng ưi làm báo chí, truy n thông ch c ch n hi u ưc iu ó. V y nguyên 
nhân sâu xa nào làm cho ng ưi ta ph i kêu toáng lên r ng: báo chí, truy n thông làm h ng v n hoá 
ri. Có l  c  3 “b nh”: vị m ới, v ị quy ền và v ị ti ền. Ba “b nh” này lúc hành h  ơn l , khi hành h  
ph i h p, làm cho b nh thêm tr m tr ng. Nhi u ng ưi l i d ng cái “báo chí là quy n l c th  t ư”  
v quy n làm b a gây t n h i cho v n hoá. Nhi u ng ưi “nhân danh cái m i” làm nh ng vi c t n 
hi  n v n hoá. Và “v  ti n” làm t n h i v n hoá. Nh ng bi u hi n c  th  c a các b nh trên thông 
qua ho t  ng c a báo chí, truy n thông  i chúng xin phép không nêu vì ai c ng bi t r i. Xin g i 
tên b nh ra v y, không g i ích danh các b nh nhân s  b  dài. Nhân ây, chúng tôi xin ch  ra m t 
th  nh ư là vô tình, không ai có l i c , và c ng có th  do hoàn c nh nên ã kéo dài quá trình “nhi m 
bnh t  nguy n” c a c  c ng  ng mà b nh có nguy c ơ thành mãn tính, khó ch a. ó là b nh xem 
phim và làm theo phim. ( B nh mê qu ng cáo và làm theo qu ng cáo xin nh ưng ng ưi khác nói). 
Phim Hàn Qu c có nhi u phim hay, nh ưng c ng có nhi u phim ng ưi ta t ng k t : yêu tay ba, ng ưi 
tt th ưng ung th ư, b o b nh ho c âm xe r i ch tDi n viên có u tóc, qu n áo có v  h p gi i 
tr v y là xem và làm theo! Phim Trung Qu c r t hay, nh ng cu c tranh giành quy n l c, nh ng 
thâm cung bí s , nh ng tr n huy t chi n, r i luy n công, luy n ki m, ánh võ + k  x o in nh ly 
k, h p d n vô h nlàm ng ưi Vi t thu c s  Trung Qu c h ơn c  s  Vi t, yêu m n nh ng v  vua 
Trung Hoa nh ư ng ưi Trung Hoa yêu m n v y! R i ón n m m i, nhi u n ơi c ng ch ng èn k t 
hoa, c ng èn l ng  treo caokhông bi t có ph i do xem phim và làm theo phim không. L i và 
không l i cho v n hoá và h ơn th  n a  n âu chúng tôi ch ưa có iu ki n kh o sát iu tra, ánh 
giá. Ch  xin l ưu ý r ng : có v  nh ư thi u phim Hàn Qu c, phim Trung Qu c là không ưc! Món n 
tinh th n hàng ngày c a c ng  ng có v  phim Hàn Qu c, v  phim Trung Qu c nh ư là ph  Hà N i 
ph i có chanh t ươ i r i. Mà hình nh ư chi u các phim y có l i h ơn thì ph i. Nhi u ng ưi xem, qu ng 
cáo gi a các pha vô cùng gây c n, h p d nKhông ai có l i vì nhà ài và a ph n c ng  ng  u 
thích! Khó gi i quy t, nh ưng r i c ng gi i quy t ưc. Tôi là ng ưi l c quan! 
 Nh ng vi c do m t vài c ơ quan báo chí ho c m t vài cá nhân làm t n h i  n v n hoá chúng 
tôi tin t  h  iu ch nh ưc vì chúng tôi ã trình bày V n hoá – Báo chí ng hành mà. 
 Báo chí, truy n thông  i chúng có vai trò tích c c  c bi t c a trong vi c gi  gìn và phát huy 
giá tr  v n hoá truy n th ng, gi i thi u v n hoá Vi t Nam v i b n bè qu c t . Các bài báo, trang báo, 
các ch ươ ng trình phát thanh, truy n hình v  v n hoá, ngh  thu t,  c bi t là v  di s n v n hoá v t 
th , phi v t th  ã ưc truy n t i ngày càng nhi u, ngày càng h p d n. Các phóng viên, biên t p 
viên, o di n, MCngày càng chuyên nghi p và có trình  cao làm cho ng ưi Vi t bi t nhi u 
hơn và t  hào h ơn v  v n hoá c a minh. V n hoá các dân t c Vi t Nam c ng ngày càng ưc qu ng 
bá r ng rãi, sâu s c làm cho b c tranh v n hoá  y  màu s c h ơn, p h ơn, da d ng h ơn trong s  
th ng nh t có b n s c Vi t Nam. Làm cho c ng  ng qu c t  xa g n hi u h ơn, yêu m n h ơn t 
nưc và con ng ưi Vi t Nam. Chúng tôi cho r ng ây là thành t u l n c a báo chí, truy n thông, 
công lao áng ghi nh n c a các c ơ quan báo chí và nh ng ng ưi làm báo trong l nh v c này. Không 
có lý gì mà nh ng ng ưi làm v n hoá, các c ng  ng v n hoá không hoan nghênh, không h p tác và 
không ki n ngh : Báo chí, truy n thông hãy làm m nh h ơn, nhi u h ơn và h p d n h ơn nh m gi  gìn 
và phát huy giá tr  di s n v n hoá Vi t Nam, gi i thi u r ng rãi, sâu s c v n hoá Vi t Nam cho c  
cng  ng trong n ưc và qu c t . Càng h i nh p sâu, r ng càng c n nhi u tác ph m báo chí, ho t 
ng báo chí nh ư v y. V n hoá – Báo chí ng hành phát tri n trong m t th  gi i h i nh p là yêu 
cu th c t  khách quan cho  t n ưc Vi t Nam hoà bình, th ng nh t,  c l p, dân ch  và giàu m nh. 
  b t i nh ng khi m khuy t, nhi u h ơn nh ng ưu im, chúng tôi xin nêu m t vài gi i pháp 
nh : 
 1. Các c ơ quan báo chí, truy n thông ch   ng h p tác ch t ch  h ơn n a v i các c ơ quan v n 
 hoá, các t  ch c và cá nhân ho t  ng v n hoá có uy tín, trách nhi m xây d ng các ch ươ ng 
 trình có tính chi n l ưc v  qu ảng bá v ăn hoá Vi ệt Nam trong n ước và trên tr ường qu ốc 
 tế nh ư là s ức m ạnh Vi ệt nam trong quá kh ứ gi ữ n ước c ũng nh ư trong h ội nh ập phát 
 tri ển đấ t n ước. Ng ưi ta nói v n hoá nh ư là s c m nh m m trong th i hi n  i, v i Vi t 
 Nam v n hoá là c u cánh trong quá kh , là ng l c phát tri n trong hi n t i và t ươ ng lai, là 
 mc ích, là l  s ng c a con ng ưi Vi t Nam khoan dung, yêu chu ng hoà bình, h u ngh  và 
 hp tác. 
 2. Vi nh ng ng ưi làm báo, gi  gìn s  trong sáng c a ti ng Vi t, ti ng m   nh ư là yêu c u 
 bt bu c. B i v y ph i có  u t ư v  v t ch t và tinh th n cho vi c này. H c và ti p t c nâng 
 cao ngôn ng  Vi t ph i là yêu c u b t bu c,  ng th i có  ng viên, khuy n khích k p th i. 
 Có u t ư  xây d ng  i ng  làm báo chuyên nghi p v  v n hoá, hi u sâu s c v n hoá Vi t 
Nam, ti p c n ưc v i các n n v n hoá, v n minh trên th  gi i. 
ôi iu àm th o mong góp m t ph n nh  cho vn hoá và báo chí. 

File đính kèm:

  • pdfvan_hoa_bao_chi_quan_he_dong_hanh_trong_the_gioi_hoi_nhap.pdf