Ảnh hưởng tôn giáo phương Đông trong chạm khắc trang trí hình tượng con người thế kỷ XVI – XVII
Tôn giáo tín ngưỡng phương Đông nhìn từ góc độ
mỹ thuật cổ truyền, điểm nhấn là Phật giáo. Thông qua
các hình tượng trang trí chạm khắc truyền thống, cụ thể
là hình tượng con người để gợi mở mức độ ảnh hưởng
của văn hóa tín ngưỡng, tôn giáo trong tạo hình dân
gian. Đồng thời, đó cũng là cơ sở khách quan để nhìn
nhận những giá trị truyền thống từ thực tiễn vốn có,
góp phần nâng cao nhận thức về văn hóa nghệ thuật
dân gian hiện nay.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Ảnh hưởng tôn giáo phương Đông trong chạm khắc trang trí hình tượng con người thế kỷ XVI – XVII", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Ảnh hưởng tôn giáo phương Đông trong chạm khắc trang trí hình tượng con người thế kỷ XVI – XVII
sự rộn rã ngày hội được chạm dưới nhiều hình thức nổi, bong, lọng Người to, người nhỏ hàng dãy dài song tất cả không phải cùng chung một đề tài hay cốt truyện. Hình tượng con người trong một số đề tài cụ thể như vũ nữ thiên thần, cảnh lao động, cảnh đấu võ, cảnh săn đấu với thú dữ, cảnh chèo thuyền, trong cảnh chọi gà. Ngoài sinh hoạt như kể trên ở nông thôn nước ta còn nhiều trò vui ngày hội, nào là chơi cờ, nào là hát cửa đình, rồi đá cầu, uống rượu hoạt cảnh náo nức. Cảnh múa nhạc thường được thể hiện cách khác nhau. Ở Dương Liễu (Hoài Đức, Hà Tây) và đình Xốm (Vĩnh Phúc) là cảnh múa nhạc để hầu rượu. Trên một bình diện, các đề tài ít ăn nhập về nội dung với nhau, người ta có thấy trên một bức chạm, ở một đầu là con voi mà trên bành có ba người đội mũ nghiêm chỉnh, phía dưới bụng voi là hai người đang tắm, kỳ lưng cho nhau, tiếp theo là đôi trai gái đang cởi trần ôm nhau, rồi cưỡi hổ ở ván nong cũng nhiều người, bên cạnh hai người đá cầu là người hút thuốc lào với điếu bát, rồi cảnh người Tây ôm một cô gái và đang định thò tay vào ngực suy cho cùng cũng không có những giới hạn ngăn cách, nhưng không Tập 8 (12/2020) 76 TẠP CHÍ KHOA HỌC YERSIN – CHUYÊN ĐỀ KHOA HỌC CÔNG NGHỆ Trai gái vui đùa đình Hưng Lộc (Nam Định) Nguồn: https://vietnam.vnanet.vn Điêu khắc gỗ, thế kỷ 17, đình Phù Lão /vietnamese/dinh-lang-viet-nhung-dieu- (Bắc Giang), là ngôi đình thời Lê, thế kỷ 17, con-mat/195057.html dựng năm 1688. Với cách chạm thủng kênh Còn nhiều đề tài khác nữa, nhưng nổi bong ở những chỗ cần thiết để làm các hình lên hơn thế là cảnh đàn bà khỏa thân, trai nổi hẳn lên theo lối tượng tròn. gái tình tự, nghịch ngợm, cảnh giao hợp nam Nguồn: nữ Những hình ảnh như nêu trên thực ra /index.php?category=2500&itemid=21232 không phải để nói về hiện tượng dâm dục hay chưa hẳn là hình thức đả phá trực tiếp vào đạo đức Nho giáo mà có thể nghĩ đó là những hình ảnh kế thừa xa xưa từ bốn cặp nam nữ giao phối ở nắp tháp đồng Đào Thịnh (Yên Bái), trên nghệ thuật tạo hình mang tính chất trang trí các đề tài này đã có xấp xỉ ba trăm năm tuổi. Ngắm nhìn những tạo hình chạm khắc trang trí hình tượng con người, phải chăng hình thức kể trên đã mang một ý nghĩa sâu xa hơn, đó là những điều cầu mong phồn thực cho hạnh phúc của Cảnh giao hoan trong lễ hội, chạm khắc cư dân nông nghiệp mà người xưa thể hiện. trên cốn đình Ngọc Canh (Vĩnh Phúc) Người đàn bà với các bộ phận sinh nở và Nguồn:https://chuteuyeuquy.blogspot. nuôi dưỡng được thể hiện sung mãn, như com/2011/08/bieu-tuong-nu-trong-nho- chứa đựng ở trong đó một nguồn của cải bất giao-va-gia-tri_30.html tận. Tuy nhiên, bởi ý nghĩa của các hình ảnh Tập 8 (12/2020) 77 TẠP CHÍ KHOA HỌC YERSIN – CHUYÊN ĐỀ KHOA HỌC CÔNG NGHỆ được bảo lưu một cách vô thức, và thời gian của thân người gánh đã tạo nên sức nặng đã làm phai mờ dần tính chất linh thiêng của vất vả. Cái dí dỏm được thể hiện rất rõ ở buổi khởi nguyên để nghệ nhân đã tạo nên cảnh ông già chơi trống bỏi, với vài nếp nhiều nét dí dỏm. Nhiều hình ảnh táo bạo nhăn hằn trên trán, tay cầm lược, tay vỗ lên khác như cảnh sờ vú đã có nhiều đình khác vai người con gái. Hình thức cô gái hoàn (Thổ Tang, Dương Liễu); bạo dạn hơn là ở toàn là thôn nữ, được chạm đơn giản, đang đình Diềm (Hoa Lư), đình Phù Lao (Lạng trong trạng thái bẽn lẽn, đưa tay cầm tóc, Giang), đình Ngô Nội (Yên Phong), ... như muốn qua đi. Suy rộng ra, cảnh nam nữ giao phối Nhiều đề tài người được chạm gắn với trong tạo hình ở đình có phải chỉ là một kiến trúc chùa đã như vượt ra ngoài tính tiếng cười e thẹn, ở hiện tượng đối đãi âm chất cốt lõi của Phật giáo. Trong đó, có một dương mà đại diện là hai con người nam nữ thế giới đáng sợ là địa ngục. Mặc dù nhằm đã tạo nên sinh lực mang tính chất “vũ trụ”, mục đích là răn đe tội ác, nhưng thế giới này là sức sống của tự nhiên sinh sôi và mặt nào như một thể đối lập với cuộc sống thực. là sức sống của dân dã, ở đó như chứa đựng Thông thường Thập Điện Diêm Vương gắn sự hình thành một sức sống khởi nguyên. với mười pho tượng còn mang hình ảnh của Ở thế kỷ XVI - XVII hình tượng con các ông vua, nhưng ở nhiều chùa, nhất là các người được thể hiện cả ở đình và chùa, tính chùa ven sông Đáy, thuộc đất Hà Đông cũ, chất dân gian thể hiện qua đề tài con người thập điện được phơi diễn ra dưới dạng phù là sâu đậm nhất trong nghệ thuật chạm khắc điêu thuộc âm cảnh của các Diêm Vương. đình làng. Ở đình Tây Đằng có mảng chạm Bằng tạo hình các âm cảnh đó đầy hình tra ông già ngồi nghỉ, chỉ với vài khối nổi và vài khảo đau buồn, đồng thời còn phản ánh một chi tiết mà thấy rõ là người trán rộng tai dài, thực tế bất công mà xã hội đương thời vẫn râu ba chòm, áo thụng, bụng nở, thoải mái thực hiện với nhân dân. trong hình thức vuốt râu mang tư cách Các nét chạm thuần thục, nhiều mảng có tiên phong đạo cốt. Nghệ thuật mộc mạc, tự giá trị cao về điêu khắc. Trong cảnh làm xiếc nhiên, mang tính cởi mở, chứa đựng cái đẹp nghệ nhân đã chạm một người đang diễn nhân hậu của tâm linh làm chính. Đi vào trò, hình thức rất mạnh bạo, chỉ lộ đôi mông cuộc sống thường nhật, ở đình Tây Đằng có và phía sau đôi chân với khối nổi căng cảnh chèo thuyền hái hoa, chèo thuyền uống phồng, tràn đầy sức sống Hoạt cảnh dân rượu, trai gái tình tự, làm xiếc, đèo gỗ, khóc dã thế kỷ XVI, cũng như nhiều đề tài khác, cho măng mọc, nhổ cây, đấu thú tại chùa khẳng định một bước đi mới của nghệ thuật cói còn có nhiều cảnh khác như dắt ngựa tạo hình dân tộc, nó còn giữ lại được cốt lõi cho quan, cầu hiền, cưỡi hổ báo tất cả đều của nhiều vấn đề xã hội và lịch sử, ước mơ nói lên một hình thức đơn giản, khái quát của tâm linh tín ngưỡng, đồng thời đề tài cao. Cảnh gánh con, ở đình Tây Đằng, hình này cũng mang nét khởi đầu làm tiền đề cho đứa bé ngồi ôm gối trong thúng của người sự phát triển của nghệ thuật dân dã cuối thế mẹ được thể hiện đầu với một u tròn lớn, kỷ XVII. một vòng cung nổi nối hai bên đầu gối, vành Ở thế kỷ XVII được diễn ra dưới hai thúng cũng là cung tròn nổi khác trông rất hình thức rõ rệt, được coi như là đỉnh cao vững chãi, mạnh bạo. Và chỉ một chút cong của nghệ thuật tượng, những năm còn lại Tập 8 (12/2020) 78 TẠP CHÍ KHOA HỌC YERSIN – CHUYÊN ĐỀ KHOA HỌC CÔNG NGHỆ được coi là đỉnh cao của nghệ thuật dân dã cũng không thể thiếu các hoa văn, linh vật Việt Nam và chủ yếu gắn với các mảng trong bố cục trang trí. Chúng bổ sung cho chạm của đình làng. Vào đầu thế kỷ, đề tài nhau trong tạo hình bố cục và thể hiện ý chủ yếu bao gồm những linh vật, những đồ thể hiện tổng thể công trình điêu khắc, biểu tượng vũ trụ, đồng thời qua đó cũng kiến trúc. có vài hình ảnh sinh hoạt dân dã. Giai đoạn Hoa văn trang trí truyền thống Việt thể giữa, nổi lên với những đề tài liên quan đến hiện quan niệm của nghệ thuật tạo hình Phật giáo, những con người thường gắn với Việt, những đồ án trang trí hay các đề tài kiếp tu (trên tháp quay, Bút Tháp). Trang của những tác phẩm mỹ thuật nói chung trí ở thế kỷ XVII đã có quá nhiều đề tài được thường mang ý nghĩa về tư tưởng của Phật thể hiện riêng lẻ mà sự đan xen và hình Giáo và triết lý của Khổng, Lão. Khi trang trí tượng con người vẫn được nổi lên mang tư một vật, người xưa chẳng những muốn làm cách trung tâm. cho những vật đó đẹp thêm ra, mà lại còn Những thế kỷ sau, sự phát triển của đạo làm cho nó có ý nghĩa về chúc tụng, mong Phật và đạo Nho, hình tượng con người đã ước nào đó. phát triển khá mạnh về loại hình, đã phản Các đồ án hoa văn sáng tạo liên quan ánh được nhiều khía cạnh của lịch sử, xã hội đến Phật Giáo như lá bồ đề, hoa sen, vũ nữ và một phần khúc mắc trong tư tưởng dân uốn mình theo điệu Tribanga của Ấn trở Việt. Hình tượng con người trong chạm khắc nên rất phổ biến trong nghệ thuật trang trí trang trí là sản phẩm của một xã hội có của những chùa, đền, tháp. Những vũ nữ nhiều biến động. Đạo Phật vốn sẵn lòng muá những khúc ngây thường lại biến nhân ái, cửa chùa luôn rộng mở đón mọi thành những vũ nữ dâng hoa, chẳng hạn chúng sinh, khi hệ tư tưởng chính thống của như hình ở những bậc đá của tháp đời nhà xã hội bị khủng hoảng trầm trọng thì ít Lý ở Chương Sơn (Hà Nam) hay những nhiều tam bảo vẫn an ủi được con người. thiếu nữ sùng bái Phật như hình khắc ở Mặt khác, ngôi đền luôn gắn với tín ngưỡng những chân cột của chùa Phật Tích còn thờ thần của người Việt, một tín ngưỡng thấy như ngày nay. vừa có tính địa phương, vừa phổ cập, do như vậy, mà tâm hồn của cư dân trong cộng đồng Việt ở buổi đương thời một phần được gửi gắm nhiều hơn vào chùa và đền. Từ đó, nhiều hoạt cảnh trong tạo hình được đưa vào kiến trúc này. Tuy nhiên, về tính chất của các đề tài đã khác xa thế kỷ XVI - XVII, chúng mang nét nghiêm trang, mất đi sự dí dỏm, thiếu hẳn sự bạo liệt đó là một thực trạng của lịch sử. Tính chất của mảng chạm như một kế thừa trực tiếp từ nghệ thuật dẫn dã đỉnh cao ở cuối thế kỷ XVII. Bên cạnh hình tượng con người là Trang trí trên đá trong các công trình chủ đạo của bài viết, chạm khắc trang trí kiến trúc Tập 8 (12/2020) 79 TẠP CHÍ KHOA HỌC YERSIN – CHUYÊN ĐỀ KHOA HỌC CÔNG NGHỆ Các biểu tượng về Phật Giáo và dịch học Nguồn: Sưu tầm Hai là, biểu tượng trang trí linh vật. Đó là Hình ảnh rồng được sử dụng rất nhiều các con vật không có thực, nó được hội nhập trong các họa tiết trang trí kiến trúc bởi các bộ phận biểu hiện sức mạnh của nhiều loài. Cũng có nhiều con là vật thực nhưng Cũng về phương diện này, chúng ta được linh hóa thành vật thiêng. Rồng là sức thấy được những hoa văn hình những đám mạnh tổng hợp ở cả ba tầng vũ trụ, là chủ mây đang xoắn chung quanh những nhân muôn loài, là biểu tượng của mây mưa và mọi vật thần thoại, chẳng hạn như những bức nguồn nước no đủ. Phượng là linh vật tầng chạm nổi tại chùa Thái Lạc (Hải Dương) trên, tượng cho vũ trụ. Con Lân cũng chính là hiện thân của sức mạnh tầng trên, của trí tuệ, hay những cánh cửa của chùa Phổ Minh trong một dạng đặc biệt (long mã) nó tượng (Hà Nam), những hoa văn hình sóng nước cho cả không gian và thời gian. Rùa qua triết như ở nền tháp Phổ Minh, hoa văn hình hoa học phương Đông, nó biểu hiện cho sự vững cúc theo từng dây dài, như mặt đá chạm nổi bền, là sự tổng hòa của âm dương đối đãi, ... Đó tìm thấy ở tháp Chương Sơn. Đây là những là những đề tài thường gặp trong tạo hình của ví dụ điển hình của những công trình sáng người Việt, của các nước Đông Nam Á (cũng tạo nổi bật trong nền mỹ thuật trang trí như Ấn Độ và cả Trung Quốc). Ngoài ra, người ta cũng gặp hổ, voi, hươu, ngựa, trâu những thời đại Lý Trần. con vật này phần nào được hình tượng hóa Tựu chung, hoa văn trang trí truyền trên cơ sở thực; chất thiêng của chúng chỉ gắn thống thường mang tính biểu tượng, đó là với ý nghĩa mà dân gian ước vọng. một trong những loại hình văn hóa mang Biểu tượng linh vật: Rồng, phượng, kỳ tính nhân văn cao nhất, nó được sinh ra từ lân, rùa thực tế của cuộc sống, và mỗi thời kỳ sẽ hình thành cho mình một số biểu tượng riêng, đó là đỉnh vàng son của bản sắc Việt. Một là, biểu tượng trang trí có tính logic, hình học, vừa như để thấy được sự kế thừa gần gũi với hoa văn thời tiền sử, vừa như để thấy tiếng “thầm thì” của tổ tiên. Những biểu tượng gắn với tôn giáo đã đầy yếu tố triết học, mà ở đây là vòng tròn “sắc không”, là ngọn lửa thiêng “tam muội” tức chữ vạn của Kiến trúc hình lá đề trang trí rồng được làm nhà Phật Rồi biểu tượng gắn với Dịch học, từ đất nung. Triều Lý – Trần (thế kỷ 11 – 14). từ những yếu tố âm dương, những vòng tròn Nguồn: lưỡng nghi, bát quái, hà đồ, lạc thưđể như tri/tuyet-dep-nhung-hinh-tuong-rong-tren- muốn nói về sự tạo lập vũ trụ và muôn loài. co-vat-57200.html Tập 8 (12/2020) 80 TẠP CHÍ KHOA HỌC YERSIN – CHUYÊN ĐỀ KHOA HỌC CÔNG NGHỆ Ba là, biểu tượng đồ án trang trí hoa lá cây cỏ trong tạo hình của người Việt so với các đề tài khác thì không nhiều, nhưng cũng đủ để chúng ta nhận diện được tâm tưởng của từng thời kỳ (như đã đề cập ở trên). Đó là những đài sen, về hình thức thì mỗi đài sen mà mỗi thời một khác, nhưng điểm chung là chúng vượt lên trên thực tế để chứa đầy ý niệm linh thiêng. Rồi lá đề tượng cho giác ngộ, hoa lá cúc nhiều khi là biểu Ở chính giữa mái cung điện là hình tượng của tinh tú hoặc mặt trời nó đối đãi tượng lá đề lớn - biểu tượng của Phật giáo cùng sen để thành một cặp “lưỡng nghi” với đôi phượng chầu ở hai bên. (âm-dương). Ngoài ra, còn có tre, trúc tượng của chúng sinh quần tụ và nói lên đặc tính của đạo là: Tùy duyên mà hóa độ. Ở cây cỏ chúng ta còn gặp tứ liên – tứ hựu tượng cho bốn mùa, hay cho các ý nghĩa thanh cao, đó là sen, mẫu đơn, tùng, trúc, mai, cúc, lan, đào được thiên hóa, tạo cho biểu tượng thêm phần phong phú. Biểu tượng đồ án trang trí hoa lá cây cỏ Mảnh vỡ về các hình tượng trang trí bên thành bậc cung điện, gồm bàn chân linh vật sấu thần và một đoạn thân rồng (bên trái) Trang trí hoa Bảo tiên trên các bia Tiến Nguồn: sĩ ở Văn Miếu /PrintView.aspx?ID=5FD212 Nguồn:https://giacngo.vn/vanhoa /2009 /10/08/734042/ Tập 8 (12/2020) 81 TẠP CHÍ KHOA HỌC YERSIN – CHUYÊN ĐỀ KHOA HỌC CÔNG NGHỆ 4. Kết luận của hệ tư tưởng Nho giáo của văn hóa Bên cạnh sự hòa quyện của các nền phương Bắc trong thời khắc lịch sử; là cơ văn hoá (như Trung Quốc và Ấn Độ) cùng sở cho niềm tự hào của dân tộc thể hiện với nền văn hoá cư dân lúa nước và tư duy qua những tác phẩm điêu khắc dân gian nông nghiệp của người dân bản địa; tôn còn lại. Đó là vốn cổ của cha ông, không chỉ giáo, tín ngưỡng là một yếu tố kết tinh và dừng lại ở tư duy mỹ thuật, phương thức tạo nên sự đặc trưng riêng cho văn hóa tạo hình mà còn chuyên chở cả một triết lý nghệ thuật Việt Nam. Sự uyển chuyển và nhân sinh, như một nền tảng và hành cộng sinh của đạo Phật mang đến sự khởi trang để phát huy bản sắc văn hóa nước sắc và sinh lực mới cho các nền văn hóa nhà trong thời đại văn minh phát triển, Việt, giúp dân tộc ta vượt qua sự đồng hóa công nghệ bùng nổ. TÀI LIỆU THAM KHẢO PGS.TS. Trần Lâm Biền, PGS.TS. Trịnh Sinh Trần Lâm Biền (1996). Chùa Việt. NXB (2011). Thế giới biểu tượng trong di VHTT. sản văn hóa Thăng Long. Hà Nội, NXB PGS.TS. Trần Lâm Biền (2008). Diễn Biến Hà Nội. Kiến Trúc truyền Thống Việt. NXB. Văn PGS.TS. Trần Lâm Biền (2007). Giáo trình Hoá Thông Tin Hà Nội. Mỹ Thuật Cổ Truyền Việt. Viện văn Lê Mạnh Thát. Lịch sử Phật giáo Việt Nam. Hóa Nghệ Thuật Việt Nam. Tập 1 (1999) tập 2 (2001) tập 3 PGS.TS. Trần Lâm Biền (2001). Trang trí (2002), NXB TP.HCM. trong mỹ thuật truyền thống của Nguyễn Duy Hinh (1999). Tư Tưởng Phật người Việt, NXB Văn Hoá Dân Tộc. Tạp giáo Việt Nam. NXB. KHXH. Hà Nội. Chí Văn Hóa Nghệ Thuật. Nguyễn Đăng Duy (2001). Văn hóa tâm linh. NXB VHTT Tập 8 (12/2020) 82
File đính kèm:
- anh_huong_ton_giao_phuong_dong_trong_cham_khac_trang_tri_hin.pdf