Ảnh hưởng của tần suất cho ăn đến cá bè đưng (G. speciosus Forsskal, 1775) ở giai đoạn đầu nuôi thương phẩm
TÓM TẮT Bài báo trình bày kết quả thí nghiệm nuôi thương phẩm cá bè đưng trong lồng bằng thức ăn công nghiệp với các nghiệm thức cho ăn hai lần, ba lần và bốn lần/ngày. Kết quả cho thấy, sau một tháng nuôi, chiều dài cá khác nhau không có ý nghĩa thống kê giữa ba nghiệm thức (P ≥ 0,05), nhưng khối lượng cá có sự khác nhau có ý nghĩa thống kê giữa cho ăn hai lần và bốn lần/ngày (P < 0,05),="" trong="" khi="" đó="" cho="" ăn="" ba="" lần="" khác="" nhau="" không="" có="" ý="" nghĩa="" thống="" kê="" với="" cả="" hai="" lần="" và="" bốn="" lần/ngày="" kê="" (p="" ≥="" 0,05).="" sau="" ba="" tháng="" nuôi,="" chiều="" dài="" và="" khối="" lượng="" trung="" bình="" của="" cá="" cho="" ăn="" hai="" lần/ngày="" đều="" thấp="" hơn="" so="" với="" cá="" cho="" ăn="" ba="" lần="" và="" bốn="" lần/="" ngày="" (p="">< 0,05),="" trong="" lúc="" cho="" ăn="" ba="" lần="" và="" bốn="" lần/ngày="" khác="" nhau="" không="" có="" ý="" nghĩa="" thống="" kê="" (p="" ≥="" 0,05).="" tỷ="" lệ="" phân="" đàn="" cá="" theo="" khối="" lượng="" và="" tỷ="" lệ="" sống="" của="" cá="" sau="" ba="" tháng="" nuôi="" khác="" nhau="" không="" có="" ý="" nghĩa="" thống="" kê="" (p="" ≥="">
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Tóm tắt nội dung tài liệu: Ảnh hưởng của tần suất cho ăn đến cá bè đưng (G. speciosus Forsskal, 1775) ở giai đoạn đầu nuôi thương phẩm
u tại Việt Nam; B- theo Fishbase 92 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 2/2020 - Theo dõi sinh trưởng + Mỗi tháng đo chiều dài và cân khối lượng cá một lần. Đo chiều dài toàn thân bằng thước có độ chính xác đến mm, cân khối lượng bằng cân điện tử có độ chính xác đến 0,1g. Mỗi lần cân đo 30 cá thể/ô lồng. Số liệu được ghi đầy đủ vào sổ nhật ký. Số liệu khối lượng cá được dùng để tính lượng thức ăn cần cung cấp hàng ngày. Số liệu về chiều dài và khối lượng cá ở mỗi lần đo được so sánh thống kê bằng phương pháp ANOVA trong phần mềm SPSS. + Tính hệ số phân đàn khi kết thúc thí nghiệm: Hệ số phân đàn được tính theo công thức sau: Trong đó: CV là hệ số phân đàn (%); SD: Độ lệch chuẩn tính theo khối lượng; W: Khối lượng trung bình của đàn cá trong từng ô lồng nuôi. Hệ số phân đàn được so sánh thống kê bằng phương pháp Kruskal Wallis test, sử dụng phần mềm Statistica 9.0. Tỷ lệ sống: Hàng ngày kiểm tra số cá chết, ghi vào sổ nhật ký, để từ đó xác định tỷ lệ sống tại thời điểm nghiên cứu, đồng thời tính số cá còn trong lồng nuôi làm cơ sở tính lượng thức ăn cần thiết cho quá trình nuôi. Tỷ lệ sống được tính theo công thức sau: Trong đó: S là tỷ lệ sống (%), Ntn là số cá thả, Ns là số cá còn sống tại thời điểm kiểm tra trong quá trình nuôi hoặc khi thu hoạch. Tỷ lệ sống của các nghiệm thức được so sánh thống kê bằng phương pháp Kruskal Wallis test, sử dụng phần mềm Statistica 9.0. - Theo dõi một số yếu tố môi trường + ToC: Đo 1 lần/ngày, vào khoảng 14h30 hàng ngày bằng nhiệt kế có độ chính xác đến 0,5oC. + Ô xy hòa tan (DO) và độ mặn (S‰): Đo 1 lần/ngày vào 6h30 và những lúc có thay đổi đột ngột về thời tiết; Trong đó, DO được đo bằng test kit, S ‰ được đo bằng Sa li kế. + pH, NO2 và NH4: Đo 1 lần/tuần vào 6h30 và những lúc có thay đổi đột ngột về thời tiết. Đo bằng test kit. CV = × 100% SD W S% = × 100 Ns Ntn Hình 3: Lồng thí nghiệm nuôi cá bè đưng III. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN 1. Một số yếu tố môi trường nuôi Nhiệt độ nước trong tháng Một dao động từ 26,5 đến 28,0oC (Trung bình 26,9oC), tháng Hai dao động từ 27,0 - 28,5 (Trung bình 27,7oC), và tháng Ba dao động từ 26,5 - 30,0 (Trung bình 28,3oC). Nhiệt độ dao động theo hướng tăng dần từ tháng Một đến tháng Ba, thấp nhất Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 2/2020 TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 93 Bảng 1: Một số yếu tố môi trường nuôi Bảng 2: Chiều dài cá đạt được sau ba tháng thí nghiệm Tháng T0C DO (mg/L) Độ mặn (‰) pH NO2 (mg/L) NH4 (mg/L) 1/2020 26,9 ± 0,5 (26,5 - 28,0) 6,0 ± 0,2 (5,0 - 6,0) 31,7 ± 0,5 (31,0 - 32,0) 7,9 ± 0,3 (7,5 - 8,0) (0,0 - 0,0) (0,0 - 0,0) 2/2020 27,7 ± 0,5 (27,0 - 28,5) 5,6 ± 0,5 (5,0 - 6,0) 32,3 ± 0,5 (32,0 - 33,0) 8,0 ± 0,0 (8,0 - 8,0) (0,0 - 0,0) (0,0 - 0,0) 3/2020 28,3 ± 1,2 (26,5 - 30,0) 5,7 ± 0,3 (5,0 - 6,0) 33,0 ± 0,9 (32,0 - 34,0) 8,0 ± 0,0 (8,0 - 8,0) (0,0 - 0,0) (0,0 - 0,0) Ghi chú: Trong ngoặc đơn là giá trị nhỏ nhất đến lớn nhất Ghi chú: số liệu đi kèm chữ cái giống nhau thì khác nhau không có ý nghĩa thống kê và ngược lại. 26,5oC (một số thời điểm tháng Một và tháng Ba), cao nhất là 30,0oC (Tháng Ba). Ô xy hòa tan chỉ dao động trong khoảng 5,0 - 6,0 mg/L ở cả ba tháng. Độ mặn tháng Một dao động từ 31,0 - 32,0‰, tháng Hai dao động từ 32 - 33‰ và tháng Ba dao động từ 32 - 34‰. pH tháng Một dao động từ 7,5 - 8,0, tháng Hai và Ba đều có giá trị 8,0 ở các lần đo. Không phát hiện NO2 và NH4 trong nước ở khu vực nuôi. Môi trường có vai trò hết sức quan trọng trong đời sống sinh vật nói chung và thủy sản nói riêng; là động vật máu lạnh, cá chịu sự chi phối rất lớn của nhiệt độ môi trường đến sinh trưởng, tỷ lệ sống (Võ Thế Dũng và cộng sự, 2018). Võ Thế Dũng và cộng sự (2019) cho biết cá mặt quỷ (Synanceia verrucosa Bloch & Schneider, Thời gian Chiều dài trung bình (mm) NT1 NT2 NT3 30/12/2019 55 ± 3 55 ± 3 55 ± 3 30/1/2020 75 ± 7a 77 ± 5a 77 ± 4a 29/2/2020 99 ± 6a 102 ± 4b 101 ± 5b 30/3/2020 133 ± 10a 138 ± 6b 138 ± 6b 1801) nuôi thương phẩm có thể sinh trưởng khi nhiệt độ dao động từ 23,0 - 28,8oC, ô xy hòa tan dao động từ 5,2 - 6,1 mg/L, pH dao động từ 7,4 - 7,9. QCVN 10-MT:2015/BTNMT quy định giá trị giới hạn của pH từ 6,5 - 8,5, DO ≥ 5,0 mg/L, NH4 ≤ 0,1 mg/L đối với nước biển cho nuôi trồng thủy sản. Như vậy, về cơ bản, các yếu tố môi trường biển đáp ứng yêu cầu kỹ thuật; Tuy nhiên, thí nghiệm này chỉ thực hiện trong thời gian ba tháng mùa khô tại Khánh Hòa, nên chưa thể phản ánh hết sự biến động của các yếu tố môi trường cũng như ảnh hưởng của chúng ở các thời điểm khác trong năm. Để có được kết quả chính xác và toàn diện hơn, cần thực hiện các thí nghiệm chuyên sâu về ảnh hưởng của môi trường đến cá nuôi. 2. Sinh trưởng của cá bè đưng nuôi lồng 2.1. Tăng trưởng chiều dài và khối lượng cá theo thời gian nuôi Bảng 2 cho thấy, sau khoảng 1 tháng nuôi, chiều dài cá dao động từ 75 mm (NT1) đến 77 mm (Hai nghiệm thức còn lại); So sánh thống kê cho thấy sự khác nhau về chiều dài không có ý nghĩa thống kê. Ngày 29/2/2020, chiều dài cá đo được ở NT1 là 99 mm, ở NT2 và NT3 lần lượt là 102 mm và 101 mm; So sánh thống kê cho thấy, sự khác 94 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 2/2020 Thời gian Khối lượng trung bình (g) NT1 NT2 NT3 30/12/2019 4,3 ± 0,3 4,3 ± 0,3 4,3 ± 0,3 30/1/2020 9,6 ± 1,5a 10,1 ± 1,2ab 10,1 ± 1,2b 29/2/2020 17,2 ± 3,5a 18,9 ± 3,1b 18,7 ± 3,0b 30/3/2020 36,1 ± 7,6a 41,0 ± 5,9b 40,9 ± 6,3b Bảng 3: Khối lượng cá đạt được sau ba tháng thí nghiệm Ghi chú: số liệu đi kèm chữ cái giống nhau thì khác nhau không có ý nghĩa thống kê và ngược lại nhau về chiều dài giữa NT1 với hai nghiệm thức còn lại có ý nghĩa thống kê, trong lúc sự khác nhau giữa NT2 và NT3 không có ý nghĩa thống kê. Khi kết thúc thí nghiệm (30/3/2020), chiều dài cá đạt được ở NT1 là 133 mm, ở NT2 và NT3 là 138 mm; Kết quả của so sánh thống kê cho thấy sự khác nhau có ý nghĩa thống kê giữa NT1 với hai nghiệm thức còn lại, trong lúc không có sự khác nhau giữa NT2 và NT3. Bảng 3 cho thấy, Ngày 30/1/2020, khối lượng trung bình cá ở NT1 đạt 9,6g/con, khối lượng trung bình cá ở các NT2 và NT3 đạt 10,1 g/con. So sánh thống kê cho thấy, sự khác nhau giữa NT1 và NT2 hay giữa NT2 và NT3 không có ý nghĩa thống kê, tuy nhiên sự khác nhau có ý nghĩa thống kê giữa NT1 và NT3. Ngày 29/2/2020, cá ở NT1 đạt khối lượng trung bình 17,2 g/con, ở NT2 là 18,9 g/con và ở NT3 là 18,7 g/con. So sánh thống kê cho thấy, sự khác nhau có ý nghĩa thống kê giữa NT1 và hai nghiệm thức còn lại, sự khác nhau không có ý nghĩa thống kê giữa NT2 và NT3. Ngày 30/3/2020, cá ở NT1 đạt khối lượng trung bình 36,1 g/con, NT2 là 41,0 g/con và NT3 là 40,9 g/con. Kết quả so sánh thống kê cho thấy, sự khác nhau có ý nghĩa thống kê giữa NT1 và hai nghiệm thức còn lại, sự khác nhau không có ý nghĩa thống kê giữa NT2 và NT3. Thức ăn là yếu tố có vai trò quyết định ảnh hưởng đến sinh trưởng của cá nuôi. Bên cạnh chất lượng thức ăn, số lần cho cá ăn trong ngày cũng có vai trò hết sức quan trọng. Số lần cho ăn có thể ảnh hưởng đến lượng thức ăn cá tiêu thụ, ảnh hưởng đến khả năng hấp thụ thức ăn... từ đó ảnh hưởng đến sinh trưởng. Cho ăn ít lần, nhưng mỗi lần cho ăn nhiều có thể dẫn đến tình trạng cá ăn không hết lượng thức ăn được cung cấp, gây lãng phí, hoặc cá ăn quá nhiều, nên không thể tiêu hóa hết thức ăn, vì thế làm giảm lượng thức ăn cá có thể tiêu thụ ở lần ăn kế tiếp. Cho ăn vừa đủ, nhưng cho ăn nhiều lần trong ngày có thể là phương pháp tốt để giúp cá sinh trưởng nhanh, sử dụng thức ăn hiều quả. Bascinar và cộng sự (2007) thí nghiệm cho ăn một lần, hai lần và ba lần/ngày đối với cá hồi Biển đen (Salmo trutta labrax Pallas, 1811), kết quả cho thấy cá cho ăn ba lần/ngày sinh trưởng tốt hơn cá cho ăn một và hai lần/ngày. Biswas và cộng sự (2010) thí nghiệm cho cá chẽm (Lates calcarifer) ăn một, hai, ba và bốn lần/ngày, kết quả cho thấy cá ở nghiệm thức cho ăn ba lần/ngày sinh trưởng tốt nhất, tuy nhiên không có sự khác nhau có ý nghĩa thống kê giữa cho ăn ba lần và bốn lần/ ngày. Wu và cộng sự (2015) thí nghiệm nuôi cá chim (Trachinotus ovatus) bằng thức ăn công nghiệp với các nghiệm thức cho ăn hai ngày/ lần, một, hai, ba và bốn lần/ngày, Nghiệm thức ăn hai lần/ngày cho sinh trưởng tốt hơn ăn 2 ngày/lần và một lần/ngày nhưng vẫn thấp hơn nhiều so với ăn ba và bốn lần/ngày, so sánh thống kê cho thấy, cá ở các nghiệm thức ăn ba và bốn lần/ngày sinh trưởng tương đương nhau, nhưng nhanh hơn so với các nghiệm thức còn lại. Rahim và cộng sự (2017) thí nghiệm cho cá trác (Acanthopagrus berda (Forsskal 1775)) ăn một lần, hai lần, ba lần và bốn lần/ngày, kết quả thu được cá cho ăn ba lần và bốn lần/ngày sinh trưởng tương đương nhau và đều nhanh hơn so với cá cho ăn một lần và hai lần/ngày. Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 2/2020 TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 95 Bảng 4: Tỷ lệ phân đàn cá theo khối lượng qua các lần cân Nghiệm thức Tỷ lệ phân đàn quá các đợt kiểm tra (CV%) 30/1/2020 29/2/2020 30/3/2020 NT1 15,6 20,3 21,1 NT2 11,5 16,5 14,4 NT3 12,0 16,0 15,4 2.2. Tỷ lệ phân đàn của cá trong quá trình nuôi Bảng 4 cho thấy, tỷ lệ phân đàn cá ở NT1, NT2 và NT3 tại thời điểm 30/1/2020 tương ứng là 15,6, 11,5 và 12,0; Tại thời điểm 29/2/2020 là 20,3, 16,5 và 16,0; Tại thời điểm 30/3/2020 là 21,1, 14,4 và 15,4%. Nhìn chung, tỷ lệ phân đàn cá ở NT1 cao hơn so với hai nghiệm thức còn lại, tuy nhiên sự khác nhau này không có ý nghĩa thống kê. Bảng 3.3 cũng cho thấy, tỷ lệ phân đàn ở NT1 tăng dần theo thời gian nuôi; Trong khi cá ở NT2 và NT3 có hệ số phân đàn tăng từ tháng thứ nhất sang tháng thứ hai, và ổn định lại ở tháng thứ ba. Kết quả nghiên cứu cho thấy, trong cả ba lần kiểm tra, hệ số phân đàn của cá ở NT1 đều cao hơn hai nghiệm thức còn lại, sự khác nhau về tỷ lệ phân đàn giữa NT1 so với hai nghiệm thức còn lại tăng dần theo thời gian thí nghiệm; do đó nếu kéo dài thêm thời gian thí nghiệm, sự khác nhau có thể sẽ đến mức có ý nghĩa thống kê. Hệ số phân đàn là một trong các chỉ tiêu quan trọng đánh giá chất lượng đàn cá. Cá phân đàn nhiều, những cá thể lớn có xu hướng gây ảnh hưởng tiêu cực đến cá thể nhỏ hơn như tranh giành thức ăn, cạnh tranh không gian sống, thậm chí tấn công gây thương tích, ảnh hưởng đến sinh trưởng và tỷ lệ sống của cả đàn. Do đó, những đàn cá phân đàn nhiều thường cho năng suất thấp, hiệu quả kinh tế không cao. Ly và cộng sự (2005) thí nghiệm ảnh hưởng của số lần cho ăn/ngày với với cá mú đen (Epinephelus coioides), kết quả cho thấy, hệ số phân đàn cá ở nghiệm thức cho ăn một lần, hai lần và ba lần/ ngày tương ứng là 24,61, 22,61 và 16,32; Xu hướng chung hệ số phân đàn nhỏ dần khi tăng số lần cho ăn/ngày lên; Kết quả so sánh thống kê cho thấy, hệ số phân đàn ở nghiệm thức cho ăn ba lần/ngày thấp hơn ở mức có ý nghĩa thống kê so với hai nghiệm thức còn lại, nhưng sự khác nhau giữa cho ăn một lần và hai lần/ngày không có ý nghĩa thống kê. 3. Tỷ lệ sống của cá thí nghiệm Bảng 5 cho thấy, tỷ lệ sống của cá ở Nghiệm thức cho ăn hai lần/ngày dao động từ 91,43 - 92,86%, ở hai nghiệm thức cho ăn ba lần/ngày và bốn lần/ngày dao động từ 92,86 - 96,19%. Nhìn chung, tỷ lệ sống ở Nghiệm thức cho ăn hai lần/ngày thấp hơn một chút so với hai nghiệm thức còn lại, nhưng sự khác nhau không có ý nghĩa thống kê. Ly và cộng sự (2005) cho biết, tỷ Nghiệm thức Ô lồng số Tỷ lệ sống (%) NT1 1 92,38 NT1 2 92,86 NT1 3 91,43 NT2 4 92,86 NT2 5 95,24 NT2 6 96,19 NT3 7 92,86 NT3 8 92,86 NT3 9 96,19 Bảng 5: Tỷ lệ sống của cá ở các ô lồng khác nhau theo từng nghiệm thức số lần cho ăn 96 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 2/2020 TÀI LIỆU THAM KHẢO Tiếng Việt 1. Võ Thế Dũng, Võ Thị Dung, Dương Văn Sang, (2018). “Nghiên cứu ngưỡng một số yếu tố môi trường quan trọng của cá bột cá mặt quỷ (Synanceia verrucosa Bloch & Schneider, 1801) trong sản xuất giống nhân tạo”. Tạp chí Khoa học Công nghệ Thủy sản, số 1/2018: 17 - 23. 2. Võ Thế Dũng, Võ Thị Dung, Dương Văn Sang, (2019). “Kết quả nghiên cứu bước đầu nuôi thương phẩm cá mặt quỷ (Synanceia verrucosa Bloch & Schneider, 1801) tại Khánh Hòa”. Tạp chí Khoa học - Công nghệ thủy sản, số 2/2019: 18 - 26. 3. QCVN 10-MT:2015/BTNMT. Quy chuẩn kỹ thuật Quốc gia về chất lượng nước biển. Tiếng Anh 4. Başçınar N., Çakmak E., Çavdar Y., Aksungur N., (2007). “The Effect of Feeding Frequency on Growth Performance and Feed Conversion Rate of Black Sea Trout (Salmo trutta labrax Pallas, 1811)”. Turkish Journal of Fisheries and Aquatic Sciences 7: 13 - 17. 5. Biswas G., Thirunavukkarasu A.R., Sundaray J.K., Kailasam M., (2010). “Optimization of feeding frequency of Asian seabass (Lates calcarifer) fry reared in net cages under brackishwater environment”. Aquaculture 305(2010): 26 - 31. 6. Ly M.A., Cheng A.-C., Chien Y.-H., Liou C.-H. (2005). “The Effects of Feeding Frequency, Stocking Density and Fish Size on Growth, Food Consumption, Feeding Pattern and Size Variation of Juvenile Grouper Epinephelus coioides”. Journal of Fisheries Society of Taiwan, 32(1): 19-28. 7. Rahim A., Abbas G., Gallus L., Ferrando S., Hafeez-ur-Rehman M., Ghaffar A., Mateen A., (2017). “Effect of Ration Level and Feeding Frequency on Growth, Nutrient Utilization and Body Composition of Juvenile Black Fin Sea Bream, Acanthopagrus berda (Forsskal 1775)”. Pakistan Journal of Zoology, vol. 49(2), pp 557 - 563. 8. Wu Y., Han H., Qin J. and Wang Y., (2015). “Effect of feeding frequency on growth, feed utilization, body composition and waste output of juvenile golden pompano (Trachinotus ovatus) reared in net pens”. Aquaculture Research, 46: 1436 - 1443. lệ sống của cá mú đen thí nghiệm cho ăn 1 lần, 2 lần và 3 lần/ngày tương ứng là 98,15, 99,54 và 99,54; Sự khác nhau về tỷ lệ sống không có ý nghĩa thống kê giữa các nghiệm thức thí nghiệm. Biswas và cộng sự (2010) cho biết, cá chẽm cho ăn ba lần/ngày có tỷ lệ sống cao hơn có ý nghĩa thống kê so với cho ăn một và hai lần/ngày. Như vậy, số lần cho ăn/ngày có ảnh hưởng không rõ ràng đến tỷ lệ sống của cá nuôi. IV. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT 1. Kết luận - Cá bè đưng nuôi lồng cho ăn thức ăn công nghiệp ba lần/ngày và bốn lần/ngày có tốc độ sinh trưởng tương đương nhau và đều nhanh hơn cá cho ăn hai lần/ngày. - Cá bè đưng nuôi lồng cho ăn thức ăn công nghiệp ba lần/ngày và bốn lần/ngày đồng đều về kích thước hơn so với cá được cho ăn 2 lần/ngày. - Tỷ lệ sống của cá cho ăn 2 lần, 3 lần và bốn lần/ngày khác nhau không có ý nghĩa thống kê. 2 Đề xuất - Thực hiện nghiên cứu về khả năng tiêu hóa thức ăn ở cá khi số lần cho ăn trong ngày khác nhau để có hiểu biết sâu hơn về nguyên nhân gây ảnh hưởng đến sinh trưởng và tỷ lệ sống.
File đính kèm:
- anh_huong_cua_tan_suat_cho_an_den_ca_be_dung_g_speciosus_for.pdf