Ảnh hưởng của mật độ cá và lượng thức ăn artemia lên tỷ lệ sống của cá tra (Pangasianodon hypophthalmus) ương từ bột đến hương trên bể composite
TÓM TẮT
Nghiên cứu trình bày ảnh hưởng của mật độ cá ương và lượng thức ăn Artemia nhằm nâng cao tỷ lệ
sống và tốc độ tăng trưởng của cá tra ương từ giai đoạn bột lên hương trong 20 ngày ương trên bể
composite. Cá tra bột được bố trí trên bể composite thể tích 1 m3 . Ba nghiệm thức ở mật độ là 1.500
con/m3, 3.000 con/m3, 4.500 con/m3 và 3 mức về lượng thức ăn được thiết kế. Mỗi nghiệm thức mật
độ và thức ăn được lặp lại 3 lần. Thu thập số liệu về số lượng Artemia trong đường ruột cá từ ngày
ương thứ nhất đến ngày thứ 6, số lượng cá chết hàng ngày, tỷ lệ sống, chiều dài và trọng lượng của
cá khi kết thúc thí nghiệm. Sự khác biệt về tỷ lệ sống và tăng trưởng của cá ở các mật độ ương và
lượng thức ăn Artemia được đánh giá bằng phân tích ANOVA trong Minitab. Mật độ cá ương và
lượng thức ăn Artemia ảnh hưởng có ý nghĩa thống kê đến tỷ lệ sống của cá (P<0,05). lượng="">0,05).>
ăn Artemia không ảnh hưởng lên tăng trưởng về chiều dài (P=0,11). Mật độ cá ương ảnh hưởng có
ý nghĩa thống kê đến tăng trưởng chiều dài (P<0,001). lượng="" thức="" ăn="" artemia="" (p="0,003)" và="">0,001).>
độ cá ương (P<0,001) ảnh="" hưởng="" có="" ý="" nghĩa="" thống="" kê="" đến="" tăng="" trưởng="" về="" trọng="" lượng.="" số="">0,001)>
Artemia trong đường ruột cá vào ngày thứ 2, 4 và 6 không bị ảnh hưởng bởi mật độ cá và lượng
thức ăn (P=0,99).Tỷ lệ cá ăn thịt lẫn nhau có chiều hướng giảm khi tăng lượng thức ăn từ (1R, 3R
và 9R), ở các mật độ 1.500, 3.000, 4.500con/m3.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Tóm tắt nội dung tài liệu: Ảnh hưởng của mật độ cá và lượng thức ăn artemia lên tỷ lệ sống của cá tra (Pangasianodon hypophthalmus) ương từ bột đến hương trên bể composite
g trưởng cá: đo chiều dài cá trên kính hiển vi khi kết thúc thí nghiệm, 100 con/bể. + Xác định lượng thức ăn trong đường ruột cá: đếm số lượng artemia sau khi cho cá ăn 1 giờ. Thu 10 con/bể, mổ đếm số con Artemia trên kính hiển vi vào ngày thứ 2, 4, và thứ 6. + Tỷ lệ ăn thịt lẫn nhau (%) = 100- [tỷ lệ sống (%)+ tỷ lệ chết (%)] 2.3.2. Phương pháp xử lý số liệu - Số liệu được thu thập và kiểm tra bằng phần mềm Excel 2007. Phương pháp phân tích ANOVA 2 yếu tố được áp dụng để đánh giá ảnh hưởng của mật độ và lượng thức ăn lên tỷ lệ sống, trọng lượng và chiều dài của cá bằng phần mềm thống kê Minitab. - Để xác định mật độ cá và lượng thức ăn tối ưu thông qua phân tích ANOVA 2 yếu tố và xếp hạng Turkey (P<0,05) bằng phần mềm thống kê Minitab. III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 3.1. Kết quả tỷ lệ sống, chiều dài và trọng lượng cá ở các nghiệm thức mật độ cá ương và lượng thức ăn Artemia. Bảng 2. Kết quả tỷ lệ sống, chiều dài và trọng lượng trung bình của cá ương ở các nghiệm thức. Thức ăn (RFL) Mật độ(con/m3) Tỷ lệ sống trung bình ± SE*(%) Chiều dài trung bình ± SE*(cm) Trọng lượng trung bình ± SE*(g) 1 1.500 23,3±1,16c 1,56±0,016a 0,035±0,0010a 3 1.500 26,3±2,34 b 1,60±0,013 a 0,032±0,0010 ab 9 1.500 38,5±3,38 a 1,59±0,014 a 0,031±0,0010bc 1 3.000 18,9±0,73 g 1,50±0,015 a 0,033±0,0009 a 3 3.000 21,1±8,00 e 1,50±0,131 a 0,028±0,0008 e 9 3.000 20,9±1,93 f 1,52±0,014 a 0,028±0,0007 de 1 4.500 12,9±2,59 i 1,51±0,013 a 0,029±0,0009 cde 3 4.500 16,6±1,84 h 1,52±0,121 a 0,027±0,0007 c 9 4.500 22,6±1,85d 1,52±0,013 a 0,031±0,0015 bcd R: Lượng thức ăn Artemia được tính theo công thức Log(RFL) = 0,377+0,176A. *: Các chữ cái khác nhau theo cột biểu thị sự khác biệt có ý nghĩa thống kê. Theo Bảng 2 ta thấy tỷ lệ sống của cá giữa các nghiệm thức mật độ và lượng thức ăn khác nhau có sự sai khác rõ rệt. Tỷ lệ sống cao nhất ở mật độ 1.500 con/m3, lượng thức ăn Artemia 9R (38,5±3,38), tiếp theo là ở mật độ 1.500 con/m3, lượng thức ăn Artemia 3R (26,3±2,34) và cao thứ 3 ở mật độ 1.500 con lượng thức ăn 1R (23,3±1,15). Tỷ lệ sống thấp nhất ở mật độ 4.500 con/m3, lượng thức ăn Artemia 1R (12,9±2,59). Có thể thấy rằng ương ở mật độ 1.500 con/m3 tỷ lệ sống đạt tương đối cao. 44 TAÏP CHÍ NGHEÀ CAÙ SOÂNG CÖÛU LONG - 3 - THAÙNG 6/2014 VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN 2 Tăng trưởng về chiều dài trung bình của cá tra sau khi ương đến 20 ngày tuổi đạt từ 1,5- 1,6 cm. Chiều dài không ảnh hưởng bởi lượng thức ăn (P=0,11), và có ý nghĩa ảnh hưởng bởi mật độ cá (P<0,001). Mặc dù chiều dài giữa các nghiệm thức không có sự khác biệt đáng kể (Bảng 2). Tuy nhiên, ở mật độ 1.500 con, lượng thức ăn 3R cho tăng trưởng chiều dài cao nhất (1,60±0,0129), chiều dài thấp nhất ở mật độ 3.000, lượng thức ăn 1R (1,50±0,015). Chiều dài ở mật độ 1.500 con có khác biệt so với mật độ 3.000 và 4.500 con, chiều dài có xu hướng cao nhất ở mật độ 1.500con. Sự tăng trưởng về trọng lượng ảnh hưởng có ý nghĩa thống kê vào lượng thức ăn Artemia (P=0,003) và mật độ cá ương (P<0,001).Theo kết quả phân tích ANOVA, tăng trưởng về trọng lượng ít sai khác giữa các mật độ cá và lượng thức ăn nhưng ở mật độ 1.500 con, tăng trưởng trọng lượng đều hơn ở mật độ 3.000 con và 4.500 con. 3.2. Kết quả số lượng Artemia ở các ngày tuổi thứ 2, thứ 4 và thứ 6. Bảng 3. Số lượng Artemia trung bình cá ăn được khảo sát vào các ngày tuổi thứ 2, thứ 4 và thứ 6. Lượng thức ăn (RFL) Mật độ (con/m 3) Số Artemia trung bình ± SE* (con) Ngày tuổi thứ 2 Ngày tuổi thứ 4 Ngày tuổi thứ 6 1 1.500 1,66±0,236 a 2,22±0,220 a 3,77±0,401 b 3 1.500 2,10±0,314 a 2,30±0,213 a 4,80±0,573 a 9 1.500 1,90±0,233 a 2,40±0,163 a 4,30±0,396 ab 1 3.000 1,90±0,251 a 2,18±0,182 a 5,36±0,453 ab 3 3.000 2,00±0,302 a 2,36±0,152 a 4,18±0,444 ab 9 3.000 1,90±0,251 a 2,18±0,182 a 4,36±0,491 ab 1 4.500 2,10±0,314 a 2,20±0,200 a 4,80±0,250 ab 3 4.500 1,90±0,233 a 2,30±0,153 a 4,70±0,448 ab 9 4.500 2,00±0,211 a 2,40±0,267 a 4,40±0,452 ab R: Lượng thức ăn Artemia được tính theo công thức Log(RFL) = 0,377+0,176A. *: Các chữ cái khác nhau theo cột biểu thị sự khác biệt có ý nghĩa thống kê. Khả năng bắt mồi của cá không phụ thuộc vào mật độ cá và lượng thức ăn cung cấp (P=0,99) không có ý nghĩa thống kê (Bảng 3). Không tìm thấy sự khác biệt về số lượng Artemia cá ăn được theo ngày tuổi thứ 2, thứ 4, thứ 6 (khảo sát trên kính hiển vi sau khi cho cá ăn 30 phút cho ăn). 45TAÏP CHÍ NGHEÀ CAÙ SOÂNG CÖÛU LONG - 3 - THAÙNG 6/2014 VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN 2 3.3. Kết quả tỷ lệ cá ăn thịt lẫn nhau tại các mật độ và lượng thức ăn khác nhau. Bảng 4. Trung bình tỷ lệ cá ăn thịt lẫn nhau tại các mật độ và lượng thức ăn khác nhau. Thức ăn (RFL) Mật độ (con/m3) Tỷ lệ ăn thịt trung bình ± SE*(con) 1 1.500 63,77±1,092bc 3 1.500 59,10± 0,466cd 9 1.500 46,87±2,119 d 1 3.000 71,06± 2,416abc 3 3.000 69,32± 7,014abc 9 3.000 67,86± 1,739abc 1 4.500 80,90±3,803a 3 4.500 77,17± 1,784ab 9 4.500 69,11± 2,306abc R: Lượng thức ăn Artemia được tính theo công thức Log(RFL) = 0,377+0,176A. *: Các chữ cái khác nhau theo cột biểu thị sự khác biệt có ý nghĩa thống kê. Tỷ lệ cá ăn thịt lẫn nhau của cá không có sự sai khác giữa các mật độ và lượng thức ăn khác nhau nhưng ảnh hưởng có ý nghĩa thống kê đến mật độ và lượng thức ăn (P<0,001) (Bảng 4). Tỷ lệ ăn thịt lẫn nhau cao nhất ở mật độ 4.500con, lượng thức ăn Artemia 1 R (80,90±3,803), tỷ lệ ăn thịt lẫn nhau của cá thấp nhất ở mật độ 1.500 con. IV. THẢO LUẬN Lượng thức ăn Artemia và mật độ cá có ảnh hưởng đến tỷ lệ sống của cá tra ương từ cá bột lên cá hương trên bể composite. Thí ng- hiệm ương cá tra trên bể composite cho cá ăn Artemia, Moina đề tài chọn giống cá tra nhằm tăng tỷ lệ philê bằng chọn lọc gia đình (Nguyễn Văn Sáng và ctv., 2009) tỷ lệ sống đạt chưa cao (15,7-23,2%). Khi so sánh ta thấy kết quả thí nghiệm có tỷ lệ sống cao hơn ngoại trừ ở mật độ 4.500 con và lượng thức ăn 1R. Thức ăn đầu vào có ảnh hưởng đến tỷ lệ sống của cá tra ương, mật độ cá không ảnh hưởng, ương cá tra sau 8 ngày với mật độ 10con/lít và lượng thức ăn Ar- temia 9R, tỷ lệ sống đạt cao (60,6%), tỷ lệ sống thấp nhất (20%) tại mật độ 30con/lít và lượng thức ăn Artemia 1R (Slembrouck và ctv., 2009). Tỷ lệ sống cá bị ảnh hưởng loại thức ăn, mật độ thức ăn (Ruzicka và Gallager, 2006, trích bởi Slembrouck và ctv., 2009). Tuy nhiên ngoài yếu tố tỷ lệ sống, tốc độ tăng trưởng cũng có ý nghĩa quan trọng trong ương nuôi cá tra trên bể composite phục vụ trong chương trình chọn giống. Do đó để lựa chọn mật độ và lượng thức ăn thích hợp cho quá trình ương nuôi cần phải căn cứ vào chỉ tiêu tăng trưởng là chiều dài và trọng lượng cá. Mật độ cá ảnh hưởng có ý nghĩa thống kê đến tăng trưởng về chiều dài. Ngược lại với kết quả thí nghiệm ương cá tra sau 8 ngày của (Slembrouck và ctv., 2009) cho thấy mật độ cá không ảnh hưởng đến tăng trưởng về chiều dài của cá (P= 0,96) nhưng lượng thức ăn đầu vào ảnh hưởng có ý nghĩa (P<0,001) đến chiều dài của cá. Giai đoạn đầu cá hương mới 20 ngày tuổi sự phát triển về trọng lượng không lớn. Theo (Slembrouck và ctv., 2009), thí nghiệm cho thấy có sự ảnh hưởng của lượng thức ăn đến sự phát triển cá ương do cá còn nhỏ miệng rộng, di chuyển chậm xác xuất gặp và bắt mồi tỷ lệ thuận với mật độ con mồi lúc này khả năng bắt mồi của cá là thụ động, vì vậy cần cung cấp đầy đủ thức ăn cho cá trong giai đoạn đầu để cá 46 TAÏP CHÍ NGHEÀ CAÙ SOÂNG CÖÛU LONG - 3 - THAÙNG 6/2014 VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN 2 tăng trưởng tốt, chưa thấy sự thể hiện số liệu về trọng lượng. Tỷ lệ sống có sai khác giữa các mật độ cá và lượng thức ăn Artemia, trọng lượng và chiều dài sai khác không đáng kể. Chiều dài đạt cao nhất ở mât độ 1.500 con, lượng thức ăn Artemia 3R (1,60 cm ±0,013), với mật độ và lượng thức ăn này tỷ lệ sống đạt tương đối cao (26,33±2,340). Tỷ lệ cá ăn thịt lẫn nhau tương đối thấp (59,10± 0,466). Vậy để đạt hiệu quả cao khi ương cá tra bột lên hương trên bể composite phục vụ cho chọn giống ta có thể lựa chọn ương với mật độ 1.500 con, với lượng thức ăn Artemia 3R đến 9R, khi ương sản xuất đại trà để giảm bớt chi phí thức ăn có thể ương với lượng thức ăn 3R. Trong chọn giống có thể ương với lượng thức ăn 9R để đạt tỷ lệ sống cao hơn sẽ giảm bớt số bể ương, tiết kiệm được thời gian. Số lượng Artemia tăng từ ngày thứ 2 đến ngày thứ 6, ở ngày thứ 2 đến ngày thứ 4 cá còn nhỏ chưa ăn nhiều, khả năng bắt mồi thụ động vì vậy cần bổ sung đủ lượng thức ăn cho cá thì cá mới tăng trưởng tốt. Ngày thứ 6 cá bắt mồi chủ động hơn, lượng thức ăn cũng tăng theo. Ở mật độ 1.500 con số Artemia từ ngày thứ 2 đến ngày thứ 6 có tăng từ 1R đến 9R có thể thấy khi tăng lượng thức ăn thì khả năng bắt mồi của cá cũng tăng. Kết quả ngược lại với thí nghiệm của (Slembrouck và ctv., 2009, lượng thức ăn trong đường ruột của cá có ảnh hưởng bởi lượng thức ăn đầu vào ( P<0,001) và không có ý nghĩa phụ thuộc vào mật độ cá. Tỷ lệ cá ăn thịt lẫn nhau có xu hướng giảm khi tăng lượng thức ăn từ 1R đến 9R tại các mật độ 1.500, 3.000 và 4.500 con. Vậy khi tăng lượng thức ăn cá bắt mồi đủ lượng thức ăn làm giảm sự ăn thịt lẫn nhau của cá. V. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT 5.1. Kết luận Với kỹ thuật ương cá tra trên bể composite từ cá bột lên hương cho ăn bằng thức ăn Artemia có bổ sung thêm Moina, thức ăn công nghiệp bột và mảnh, thì mật độ cá ương và lượng thức ăn Artemia cung cấp đều ảnh đến tỷ lệ sống của cá có ý nghĩa thống kê. Tỷ lệ sống đạt cao nhất ở mật độ 1.500 con/m3 và lượng thức ăn Artemia 9R (38,5%). Với mật độ không quá lớn (1.500 con/m3) thức ăn cung cấp đầy đủ (3R-9R), tỷ lệ sống của cá ương đạt tương đối cao. Do đó có thể áp dụng quy trình ương ở mật độ và lượng thức ăn này trong chương trình chọn giống cá tra. Mật độ cá ương ảnh hưởng có ý nghĩa thống kê đến tăng trưởng về chiều dài (P<0,001). Lượng thức ăn Artemia không ảnh hưởng đến sự tăng trưởng về chiều dài của cá (P=0,11), trong khi đó chúng có ảnh hưởng có ý nghĩa thống kê lên tốc độ tăng trưởng về trọng lượng (P=0,003). Lượng thức ăn Artemia trong đường ruột cá tăng theo ngày tuổi cá từ ngày thứ 2 đến ngày thứ 6. Ngày thứ 2 đến ngày thứ 4 khi cá còn nhỏ, khả năng bắt mồi thụ động, bơi lội kém chưa chủ động tìm kiếm nên thức ăn trong đường ruột thấp. Khi cá bơi lội và bắt mồi chủ động hơn vào ngày thứ 6 thì lượng thức ăn trong ruột cá cũng tăng. Do đó, cần chú ý cho ăn thức ăn Artemia đầy đủ vào các ngày thứ 2-4. 5.2. Đề xuất Ương cá tra bằng thức ăn Artemia tỷ lệ sống đạt tương đối cao, tuy nhiên chi phí mua thức ăn tương đối lớn, áp dụng cho chương trình chọn giống là chủ yếu. Cần có thí nghiệm nghiên cứu thêm lượng thức ăn Moina và thức ăn mảnh/viên có ảnh hưởng đến sự tăng trưởng về chiều dài. Nghiên cứu thêm thí nghiệm ương cá tra bột lên hương cho cá ăn thức ăn Artemia với lượng lớn hơn 9R có thể giảm tỷ lệ ăn thịt lẫn nhau và tỷ lệ sống cao hơn. 47TAÏP CHÍ NGHEÀ CAÙ SOÂNG CÖÛU LONG - 3 - THAÙNG 6/2014 VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN 2 TÀI LIỆU THAM KHẢO Tài liệu tiếng Việt Nguyễn Văn Sáng, Nguyễn Văn Hảo, Trần Đình Trọng, Nguyễn Công Dân, Quyền Đình Thi, Nguyễn Thị Diệu Thúy, Đinh Hùng, Phạm Đình Khôi, Bùi Thị Liên Hà, Nguyễn Điền, Nguyễn Quyết Tâm, Ngô Hồng Ngân, 2009. Báo cáo tổng kết đề tài ’’Chọn giống cá tra nhằm tăng tỷ lệ phi lê bằng chọn lọc gia đình’’, Bộ Nông Nghiệp và Phát Triển Nông Thôn, tr. 15-22. Nguyễn Văn Sáng, Nguyễn Văn Hảo, Phạm Đình Khôi, Lê Hồng Phước, Nguyễn Điền, Nguyễn Quyết Tâm, Ngô Hồng Ngân, Nguyễn Thị Đang, Nguyễn Thế Vương, Trịnh Quốc Trọng, 2010. Báo cáo khoa học tổng kết năm đề tài “Đánh giá hiệu quả chọn giống cá tra (Pangasianodon hypophthalmus) về tăng trưởng và tỷ lệ phi lê’’, 34 trang. Nguyễn Văn Sáng, Phạm Văn Khánh, Phạm Đình Khôi, Phan Thanh Lâm, Nguyễn Quyết Tâm, Đặng Minh Phương, Nguyễn Thị Đang, Trần Anh Dũng, Nguyễn Văn Ngô, 2011. Báo cáo tổng kết đề tài ’’Đánh giá hiện trạng sản xuất giống và xây dựng các giải pháp quản lý nhằm nâng cao chất lượng giống cá tra ở đồng bằng sông Cửu Long’’, tr. 25-30. Tài liệu tiếng Anh Hung, L.T., Tuan, N.A., Cacot, P., Lazard, J., 2002. Larval rearing of the Asian Catfish, Pansasius bocourti (Siluroidei, Pangasiidae) alternative feeds and weaning time. Aquaculture 23, 115-127. Slembrouck, J., Baras, E., Subagja, J., Hung, L.T., Legendre, 2009. Survival, growth and food conversion of cultured larvae of Pangasianodon hypophthalmus, depending on feeding level, prey density and fish density. Aquaculture 8, 52-59. Slembrouck, J., Baras, E.C., Cochet, D., Caruso, M., Legendre, 2010. Morphological factors behind the early mortality of culture larvae of the Asian catfish, Pangasianodon hypophthalmus. Aquaculture 9, 211-219. 48 TAÏP CHÍ NGHEÀ CAÙ SOÂNG CÖÛU LONG - 3 - THAÙNG 6/2014 VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN 2 EFFECT OF FISH DENSITY AND ARTEMIA FEEDING LEVEL ON SURVIVAL RATE OF STRIPED CATFISH (Pangasianodon hypophthalmus) NURSING FROM FRY TO FINGERLING IN FIBERGLASS TANK Nguyen Van Sang1, Nguyen Thi Dang2 ABSTRACT This study focusses on effects of density and Artemia feeding level on improving growth and sur- vival of 20-day fingerling nursed from one-day fry post hatching in fiberglass tank. Fry was assigned in 1-m3 fiberglass tank. Three treatments of density 1,500 fish/m3; 3,000 fish/m3; 4,500 fish/m3 and three Artemia feeding level were conducted. Each density and Artemia feeding level treatment was repeated 3 times. Experimental period was 20 days. Artemia number in fish intestine from 1st to 6th day, daily dead fish, fish survival, length and weight at the and experiments were recorded. The dif- ference in survival rate and growth rate were evaluated by ANOVA analysis in Minitab. Fish density and Artemia feeding level influenced significantly to fish survival (P<0.05). The Artemia feeding level did not influence significantly to growth in length (P=0.11) but significantly to growth in weight (P=0.003). Fish density influenced significantly to growth in weight (P<0.001). The number of Artemia in fish intestine was not influenced by fish density and Artemia feeding level (P=0.99). Cannibalism rate decreased when increasing Artemia feeding level at all densities. Keywords: striped catfish fingerling, fish density, feeding level, growth rate, survival, cannibalism rate. Người phản biện: TS. Phạm Cử Thiện Ngày nhận bài: 10/02/2014 Ngày thông qua phản biện: 28/02/2014 Ngày duyệt đăng: 30/3/2014 1 Research Insitute for Aquaculture No.2 Email: nguyenvansang1973@yahoo.com 2 National Breeding Center for Southern Freshwater Aquaculture, Research Insitute for Aquaculture No.2
File đính kèm:
- anh_huong_cua_mat_do_ca_va_luong_thuc_an_artemia_len_ty_le_s.pdf