Ảnh hưởng của độ mặn đến một số chỉ tiêu sinh lý và tăng trưởng cá rô đồng (Anabas testudineus)
TÓM TẮT
Nghiên cứu được thực hiện nhằm xác định ảnh hưởng của độ mặn lên các chỉ tiêu snh lý,
sinh thái cá rô đồng (Anabas testudineus). Phương pháp truyền thống sử dụng bình kính
nghiên cứu các chỉ tiêu sinh lý được sử dụng cho nghiên cứu này. Đối tượng là cá rô đồng
khoảng 6-8g được bố trí xác định các chỉ tiêu sinh lý, sinh thái với các ngưỡng độ mặn 0, 3,
6, 9 (thí nghiệm 1). Thí nghiệm 2 với cá rô đồng sau khi được thuần dưỡng, được bố trí
ngẫu nhiên với các độ mặn khác nhau gồm 3, 5, 7, 9‰ (nghiệm thức đối chứng 0‰) với
mật độ 3con/lít. Kết quả ngưỡng nhiệt độ dưới và trên có các giá trị tương ứng là 11,46–
13,16 0C và 41,70 – 42,0 0C. Khi độ mặn tăng từ 0 đến 9‰, ngưỡng oxy của cá tăng dần từ
2,93 đến 4,36 mgO2/L và cường độ hô hấp tăng dần từ 0,18 đến 0,28 mgO2/g.giờ. Ngưỡng
pH trên của cá giảm dần từ 11,93 - 11,03 tương tự ngưỡng pH dưới cũng có xu hướng
giảm dần (từ 2,8 ở 0‰ đến 2,36 ở độ mặn 9‰). Ở thí nghiệm 2, cá ở nghiệm thức 3‰ có tỷ
lệ sống 95% và tốc độ tăng trưởng cao nhất (p<0,05) đạt="" 17,39g.="" từ="" kết="" quả="" nghiên="">0,05)>
trên cho thấy cá rô đồng có thể sinh trưởng được trong môi trường có độ mặn khá cao tới 9
‰ nhưng ở độ mặn 3‰ đạt kết ương nuôi cao nhất.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Tóm tắt nội dung tài liệu: Ảnh hưởng của độ mặn đến một số chỉ tiêu sinh lý và tăng trưởng cá rô đồng (Anabas testudineus)
trong môi trường này cá không hoặc ít tốn năng lượng cho việc điều hòa áp suất thẩm thấu, cá ít bị bệnh. Cá ở nghiệm thức đối chứng (nước ngọt) dễ mắc bệnh do một số tác nhân gây ra làm ảnh hưởng đến hoạt động bắt mồi của cá, từ đó làm giảm tỷ lệ sống của cá. Tỷ lệ sống cá rô đồng ở nghiệm thức 9‰ là thấp nhất, nguyên nhân có thể là do cá mất quá nhiều năng lượng để điều hòa ASTT, trong khi mức độ bắt mồi cũng thấp, tổng hợp các yếu tố trên dẫn đến sức khỏe của cá suy giảm, khả năng đề kháng với các tác nhân gây bệnh giảm và cá dễ bị nhiễm bệnh. Thực tế trong quá trình nghiên cứu đã ghi nhận được cá ở nghiệm thức 9‰ bị bệnh nhiều hơn các nghiệm thức khác. Theo Zaaim et al (2018) cá rô đồng được ương với các độ mặn từ 0; 5;10;15 ‰ qua thí nghiệm tác giả đã khẳng định rằng mặc dù cá rô có thể sống được đến độ mặn 15‰, tuy nhiên để giúp cá có tốc độ tăng trưởng tốt và tỷ lệ sống cao thì độ mặn không nên vượt quá 10‰. Đồng thời kết quả thí nghiệm cũng cho thấy ở độ mặn 5‰ tỷ lệ sống cá đạt cao nhất 100%. Còn ở cá rô đầu vuông ở 9‰ cho tỷ lệ sống cao nhất (100%) và ở độ mặn 12‰ cá có tỷ lệ sống thấp nhất là 92,2%. Qua các thí nghiệm cho thấy độ mặn ảnh hưởng rõ rệt đến tỷ lệ sống của cá. Khả năng chịu đựng của cá tùy thuộc và khả năng điều hòa áp suất thẩm thấu và giới hạn thích ứng của từng loài khác nhau. Trong quá trình nghiên cứu đã ghi nhận cá chết tập trung ở thời điểm 3 tuần sau khi bố trí thí nghiệm. Số lượng cá chết trong tuần đầu tiên nhiều nhất là ở nghiệm thức 9‰. Đặc điểm cá chết ở nghiệm thức 9‰ quan sát thấy da khô, mất nhớt và mất nước. Hiện tượng này có thể giải thích được là khi ở độ mặn càng cao thì nước trong cơ thể cá mất càng nhiều. Điều này ảnh hưởng đến quá trình trao đổi chất, hoạt động của cá và có thể cá sẽ chết, kéo theo tỷ lệ sống ở nghiệm thức này thấp. Ngược lại ở các nghiệm thức có độ mặn thấp 0‰,3‰ có tỷ lệ sống của cá tương đối cao vì khi ở độ mặn này cá không phải mất quá nhiều năng lượng cho quá trình điều hòa ASTT, năng lượng chủ yếu tập trung vào quá trình tăng trưởng cũng như không bị ảnh hưởng bởi các tác nhân gây bệnh. 3.4.2. Tăng trưởng về khối lượng của cá rô đồng giống ở các độ mặn khác nhau Tốc độ tăng trưởng về khối lượng của cá rô đồng sau 45 ngày nuôi với các độ mặn khác nhau được trình bày trong Bảng 6. Độ mặn khác nhau cũng ảnh hưởng lên sự tăng trưởng khối lượng của cá rô đồng. Độ mặn càng tăng thì tăng trưởng của cá rô đồng càng giảm. Cao nhất là nghiệm thức 3‰ (10,88±2,34 g/con) kế đến là nghiệm thức đối chứng 0‰ (9,20 ±1,37 g/con) và có khác biệt ý Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô Số 07 - 2019 180 nghĩa thống kê (p<0,05) so với các nghiệm thức còn lại. Khối lượng trung bình của cá thấp nhất là nghiệm thức 9‰ (7,34±1,47 g/con) và khác biệt có ý nghĩa thống kê so với các nghiệm thức còn lại. Nghiệm thức 5‰ và 7‰ có khối lượng trung bình tương đương nhau lần lượt là 8,29 và 8,16 g/con. Theo Dương Tuấn (1981), khi độ mặn tăng lên dẫn đến sự chênh lệch áp suất thẩm thấu giữa môi trường bên trong và môi trường bên ngoài cơ thể cá, do đó nước trong cơ thể mất đi và lượng muối tăng lên làm cho áp suất thẩm thấu của môi trường trong cơ thể cá thay đổi lớn, dẫn đến sự thay đổi chức năng sinh lý trong tế bào cơ thể cá, nhưng khi độ mặn giảm thì ngược lại, vì vậy để điều hòa ASTT cá cần phải tiêu hao một lượng lớn năng lượng. Theo Zaaim et al (2017) ương cá rô đồng ở các độ mặn 0; 5; 10; 15‰ kết quả sau 3 tháng ương cá tăng thấp nhất ở nghiệm thức độ mặn 15‰ (3,27 g/con) và cao nhất ở nghiệm thức 5‰ (4,83 g/con). Theo Faijun Nahar et al (2016) ương cá rô đồng ở các độ mặn 0;3;6;9;12;15‰ trong thời gian 60 ngày. Kết quả tốc độ tăng trưởng khối lượng SGR (%/ngày) của cá rô đạt cao nhất ở nghiệm thức đối chứng 0‰ (1,16%/ngày) kế đến là nghiệm thức 3‰ (0,99%/ngày) và thấp nhất là ở nghiệm thức 15‰ (0,09%/ngày). Trương Thanh Trúc, (2012) cho biết tăng trọng của cá tra giống thấp nhất ở nghiệm thức có độ mặn 18‰ (3,15g/con) và cao nhất ở nghiệm thức 10‰ (13,7g/con). Thí nghiệm của Trần Thanh Tiến (2012), đã thu được tăng trưởng cá lóc ở độ mặn 3‰ cao nhất (59,86g/con) và thấp nhất ở độ mặn 12‰ (40,15g/con), còn ở độ mặn 15‰ sau 18 ngày cá chết hoàn toàn. Qua thí nghiệm trên cho thấy độ mặn ảnh hưởng đến tăng trọng của cá nước ngọt nói chung và cá rô đồng nói riêng, khi nuôi ở độ mặn cao cá tăng trưởng thấp. Nguyên nhân có thể là do cá nuôi ở môi trường nước mặn tiêu tốn năng lượng để điều hòa ASTT nhiều hơn so với môi trường nước ngọt và nước có độ mặn thấp (Đỗ Thị Thanh Hương và ctv., 2000). Điều này làm ảnh hưởng đến khả năng tiêu hóa thức ăn và bắt mồi của cá nên ở môi trường có độ mặn cao cá tăng trưởng chậm hơn. Bảng 6. Tăng trưởng khối lượng của cá rô đồng trong thí nghiệm Ghi chú: Giá trị thể hiện là số trung bình và độ lệch chuẩn. Các giá trị trên cùng một cột có các chữ cái khác nhau thì khác biệt có ý nghĩa thống kê ở mức (p<0,05) NT Wđ (g) Wc (g) WG (g) DWG (g/ngày) SGR (%/ngày) NT ĐC 6,51±0,53 15,67±1,69c 9,20± 1,37c 0,15±0,03c 1,45±0,13c NT1 6,51±0,53 17,39±2,34d 10,88 ± 2,34d 0,18±0,04d 1,62±0,21d NT2 6,51±0,53 14,82±1,71b 8,29 ± 1,71b 0,14±0,03b 1,36±1,71b NT3 6,51±0,53 14,70±1,73b 8,16 ± 1,73b 0,14±0,03b 1,34±0,19b NT4 6,51±0,53 13,86±1,47a 7,34 ± 1,47a 0,12±0,02a 1,25±0,18a Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô Số 07 - 2019 181 3.4.3. Tăng trưởng chiều dài của cá rô đồng ở các độ mặn khác nhau Chiều dài của cá được ghi nhận sau 45 ngày nuôi được thể hiện ở Bảng 7. Tương tự như khối lượng, sau 45 ngày nuôi đã có sự khác biệt về chiều dài của cá ở các nghiệm thức, cao nhất là nghiệm thức 3‰ (4,07±0,60 cm/con) và khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05) với các nghiệm thức còn lại. Chiều dài trung bình thấp nhất của cá là ở nghiệm thức 9‰ với (2,94±0,47 cm/con). Kết quả nghiên cứu này phù hợp với kết quả nghiên cứu của Quách Thị Hồng Vân (2012), cho rằng độ mặn có ảnh hưởng lên tăng trưởng chiều dài của cá Chốt (Mystus gulio) giai đoạn bột đến 30 ngày tuổi. Sự gia tăng về chiều dài của cá cao nhất (2,68 cm/con) ở độ mặn 5‰ và thấp nhất (2,30 cm/con) ở độ mặn 15‰. Tương tự thí nghiệm của Trần Thanh Tiến (2012), về ảnh hưởng của độ mặn lên tăng trưởng cá lóc ở các độ mặn từ 0 - 15‰ đã ghi nhận tăng trưởng về chiều dài lớn nhất của cá lóc ở độ mặn 3‰ (10,51 cm/con) và thấp nhất ở độ mặn 12‰ (8,78 cm/con). Ở độ mặn 15‰ cá chết hoàn toàn sau 18 ngày. Tốc độ tăng trưởng theo ngày về chiều dài của cá rô đồng giống dao động từ 0,049 - 0,070 cm/ngày. Qua Bảng 7 nhận thấy, tốc độ tăng trưởng chiều dài của cá thấp nhất ở nghiệm thức 9‰ (0,049 cm/ngày) và khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05), ngược lại ở nghiệm thức 3‰ tốc độ tăng trưởng về chiều dài của cá đạt cao nhất (0,070 cm/ngày) khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05) so với các nghiệm thức khác. Như vậy độ mặn càng cao thì tốc độ tăng trưởng về chiều dài của cá càng chậm. Qua quá trình quan sát và ghi nhận ở tuần ương thứ nhất, khả năng bắt mồi của cá ở môi trường nước ngọt và 3‰ là tốt nhất, điều đó chứng tỏ độ mặn này phù hợp với quá trình sống của cá. Các nghiệm thức còn lại, mức độ bắt mồi của cá kém hơn. Từ tuần ương thứ hai, cá đã thích nghi với môi trường, cá ở độ mặn 5‰ bắt mồi linh hoạt và tốt hơn. Đối với nghiệm thức độ mặn 7‰ và 9‰, cá bắt mồi rất ít. Điều này giải thích một điều, khi ương cá ở độ mặn càng cao thì sự phát triển của cá càng giảm do nồng độ muối quá cao có ảnh hưởng đến hoạt động sống và khả năng bắt mồi của cá. Trong môi trường có độ mặn càng cao, cá sẽ mất nhiều năng lượng cho quá trình điều hòa ASTT từ trữ muối sang trữ nước. Nếu thời gian cá sống trong môi trường có độ mặn càng cao kéo dài sẽ dẫn đến cá bắt mồi kém, bỏ ăn, cá sẽ bị suy kiệt về năng lượng dự trữ, từ đó tốc độ tăng trưởng của cá sẽ bị chậm lại. Ở môi trường có nồng độ muối cao cá bắt mồi kém, bỏ ăn từ đó làm sức khỏe của cá yếu đi tạo điều kiện cho mầm bệnh phát triển, cụ thể ở các nghiệm thức có nồng độ muối cao (7‰, 9‰) cá bị kí sinh trùng gây cho cá bị bệnh lở loét, mất nhớt và bệnh trong thời gian kéo dài làm cho cá chết nhiều ở các nghiệm thức này. Trong khi đó, các nghiệm thức có độ mặn thấp (0‰, 3‰, 5‰) năng lượng tiêu hao cho quá trình điều hòa ASTT thấp, nên năng lượng hấp thụ được từ thức ăn chuyển hóa vào quá trình tăng trưởng cao, nên các ở các nghiệm thức này có tốc độ tăng trưởng nhanh, cụ thể ở nghiệm thức 3‰ cá có Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô Số 07 - 2019 182 tốc độ tăng trưởng cao nhất (0,182 g/ngày), tiếp theo là nghiệm thức 0‰ (0,152 g/ngày). Ngoài ra, ở nhóm nghiệm thức độ mặn thấp, không gặp một số tác nhân gây bệnh trên cá nước ngọt. Bảng 7. Tăng trưởng chiều dài cá rô đồng Ghi chú: Giá trị thể hiện là số trung bình và độ lệch chuẩn. Các giá trị trên cùng một cột có các chữ cái khác nhau thì khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05). Từ kết quả trên cho thấy, độ mặn ảnh hưởng rõ rệt đến quá trình tăng trưởng và phát triển của cá rô đồng giai đoạn giống, độ mặn càng cao thì tỷ lệ sống và tăng trưởng của cá càng thấp. Do đó, độ mặn từ 0 - 5‰ là khoảng độ mặn phù hợp cho sự tăng trưởng cá rô đồng, có thể đáp ứng nhu cầu ương nuôi ở vùng nước lợ. 4. KẾT LUẬN Trong khoảng độ mặn từ 0 đến 9‰ các chỉ tiêu sinh lý như ngưỡng oxy, tiêu hao oxy, nhiệt độ, pH của cá giảm khi độ mặn tăng.Tỷ lệ sống và tăng trưởng của cá rô đồng giảm dần khi độ mặn tăng, trong đó tỷ lệ sống, tăng trưởng của cá ở nghiệm thức 3‰ cao nhất và khác biệt so với các nghiệm thức còn lại. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Brown, 1991. Effect of Salinity on Growth, Feed Utilization, and Survival of Tilapia rendalli Under Laboratory Conditions. Journal of Applied Aquaculture, Volume 20, Issue 4 November 2008, pages 256 –271. 2. Đỗ Thị Thanh Hương, Nguyễn Văn Tư. 2010. Một số vấn đề sinh lý cá và giáp xác. NXB Nông nghiệp, 152 trang. 3. Faijun NaHar, Wahida Haque, Dewan Ali Ahsan and MD. Ghulam Mustafa, 2016. Effect of salinity changes on growth performance and survival of climbing perch, anabas tesstudines. Dhaka Univ.J. Biol. Sci. 25(1): 65-73. 4. Hồ Phương Ngân, 2011. Ảnh hưởng của độ mặn lên sinh trưởng và một số chỉ tiêu sinh lý của cá trê vàng lai (Clairias macrocephalus × Clarias gariepinus) giai đoạn bột lên hương. Luận văn tốt nghiệp cao học, ngành nuôi trồng thủy sản, trường Đại học Cần Thơ. 5. Huỳnh Hiếu Lộc, 2009. Ảnh hưởng của độ mặn khác nhau lên một số chỉ tiêu sinh lý, tăng trưởng và tỉ lệ sống của cá Bống Tượng (Oxyeleotris Nghiệm thức Lđ (cm) Lc (cm) LG (cm) DLG (cm/ngày) NT ĐC (0‰) 4,56±0,49 8,19±0,61c 3,62 ± 0,55c 0,060±0,01c NT1 (3‰) 4,56±0,49 8,64±0,97d 4,07 ± 0,60d 0,070±0,02d NT2 (5‰) 4,56±0,49 7,87±0,66b 3,30 ± 0,21b 0,055 ±0,01b NT3 (7‰) 4,56±0,49 7,67±0,62ab 3,10 ± 0,47ab 0,052±0,03ab NT4 (9‰) 4,56±0,49 7,51±0,49a 2,94± 0,47a 0,049 ±0,01a Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô Số 07 - 2019 183 marinoratus) giai đoạn giống. Luận văn tốt nghiệp cao học, ngành nuôi trồng thủy sản, trường Đại học Cần Thơ. 6. IMHEN. (Ngày 6 tháng 8, 2015). Kịch bản biến đổi khí hậu, nước biển dâng cho Việt Nam 2009.Viện Khoa học Khí Tượng và Biến Đổi Khí Hậu.Truy cập từ vu/cat52/53/Kich-ban-bien-doi-khi-hau- nuoc-bien-dang-cho-Viet-Nam 7. Lã Ánh Nguyệt, 2014. Nghiên cứu một số chỉ tiêu sinh học cá thát lát còm ( Chitala chitala) giai đoạn phôi, cá bột và cá giống. Tạp chí khoa học Đại học Cần Thơ 2012: 21b 62 - 67. 8. Lê Phú Khởi, 2009. Ảnh hưởng của độ mặn, pH đến sự phát triển phôi và cá bột rô đồng (Anabas testudineus, 1972). Luận văn cao học. Trường Đại học Cần Thơ. 9. Lê Quốc Việt, Trần Ngọc Hải. & Nguyễn Anh Tuấn, 2010. Ảnh hưởng của mật độ lên tăng trưởng và tỷ lệ sống của cá Đối (Liza Subviridis) ương trong giai. Tạp chí khoa học số 14. Trường Đại học Cần Thơ. 10. Nguyễn Văn Kiểm, Phạm Minh Thành, 2013. Kỹ thuật sản xuất giống cá. Nhà xuất bản Đại học Cần Thơ. 11. Trang Văn Phước, 2010. Ảnh hưởng của độ mặn tới sinh trưởng và điều hòa áp suất thẩm thấu cá sặc rằn (T. pectoralis). Luận văn thạc sĩ, ngành nuôi trồng thủy sản - Đại học Cần thơ. 12. Trần Thanh Tiến, 2012. Ảnh hưởng của độ mặn lên tăng trưởng của cá lóc (Channa striata). Luận văn tốt nghiệp đại học - Ngành nuôi trồng thủy sản. Khoa Thủy sản - Trường Đại học Cần Thơ. 13. Trần Trường Giang, 2008. Ảnh hưởng của độ mặn khác nhau lên sinh lý, sinh trưởng cá bống kèo (Pseudapocrytes lanceolatus, Bloch 1801). Luận văn thạc sĩ, ngành nuôi trồng thủy sản, trường Đại học Cần Thơ. 14. Quách Thị Hồng Vân, 2012. Thử nghiệm ương cá chốt (Mystus gulio) giai đoạn cá bột đến 30 ngày tuổi ở các độ mặn khác nhau. Khóa luận tốt nghiệp đại học - Ngành nuôi trồng thủy sản. Khoa Sinh học ứng dụng - Trường Đại học Tây Đô. 15. Zaaim Z.; Christianus A.; Ismail M.F.S., 2018. Effect of stocking density and salinity on the growth and survival of golden Anabas fry. Journal of survery in Fisheries sciences 4(2) 26-37. Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô Số 07 - 2019 184 EFFECTS OF SALINITY ON SOME BIOLOGICAL CHARACTERISTICS AND GROWTH OF CLIMBING PERCH (ANABAS TESTUDINEUS) Tran Ngoc Huyen, Nguyen Le Hoang Yen and Pham Thi My Xuan Faculty of Applied Biology, Tay Do University (Email: tnhuyen@tdu.edu.vn) ABSTRACT This study aimed at evaluating the effects of different salinity levels on the biology and growth of climbing perch (Anabas testudineus). Experiment based on the common methods used to study the biology of fish. The first experiment was Climbing perch fish from 6-8 g/individual were used for studying the biology with salinity levels from 0, 3, 6, 9 ‰ . The second experiment: climbing perchs were acclimated in salinity condition within a suitable time and were distributed in 5 treatments including control, 3, 5, 7, 9 ppt of salinity with density of 3 fishes/L. The result showed that, the lower and upper temperature tolerance fluctuated from 11,46 0C to 13,16 0C and from 41,70 0C to 42,0 0C. The oxygen tolerance increased from 2,93 to 4,36 mgO2/L, the oxygen consumption increased from 0,18 to 0,28 mgO2/g.h. The upper pH tolerance was 11, 93 – 11,03, the lower pH tolerance was decreasing from 2,8 to 2,36. Climbing perch fish survived up to 9 ppt of salinity. They had a highest survival rates and growth in salinity condition 3 ppt(p<0,05). Keywords: Anabas testudineus, climbing perch, salinity.
File đính kèm:
- anh_huong_cua_do_man_den_mot_so_chi_tieu_sinh_ly_va_tang_tru.pdf