Yếu tố ảnh hưởng đến khả năng nghiên cứu khoa học của giảng viên trường Đại học Công nghiệp Hà Nội
TÓM TẮT
NCKH là nhiệm vụ chính của các GV đại học song hành cùng với hoạt động
giảng dạy. Trong thời gian qua, các trường đại học ở Việt Nam đã ngày càng quan
tâm đến hoạt động NCKH của GV thông qua các chính sách thưởng, đánh giá viên
chức, xếp loại thi đua. Nghiên cứu này tập trung xem xét các yếu tố ảnh hưởng
đến khả năng NCKH của GV, được đo lường bằng chỉ tiêu số giờ NCKH trong một
năm học. Nghiên cứu thực hiện khảo sát đối với 285 GV trường Đại học Công
nghiệp Hà Nội trên cơ sở chọn mẫu ngẫu nhiên. Dữ liệu khảo sát được phân tích
thông qua phần mềm SPSS 20. Kết quả nghiên cứu đã chỉ ra năm yếu tố: trình độ
chuyên môn, lĩnh vực chuyên môn, thu nhập, thái độ, động cơ nghiên cứu có tác
động đến khả năng NCKH của GV, trong đó, yếu tố trình độ chuyên môn có ảnh
hưởng ngược với kết quả NCKH của GV.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Tóm tắt nội dung tài liệu: Yếu tố ảnh hưởng đến khả năng nghiên cứu khoa học của giảng viên trường Đại học Công nghiệp Hà Nội
erged in 5 iterations. Kết quả tương quan, hồi quy Kết quả hệ số tương quan giữa các biến (bảng 6) cho thấy, hệ số tương quan giữa các biến độc lập trong mô hình không có cặp nào có giá trị tuyệt đối lớn hơn 0,8. Ở ma trận hệ số tương quan giữa các biến với biến phụ thuộc Khả năng NCKH, hệ số thấp nhất là -0,430 giữa biến Trình độ và Số giờ NCKH, hệ số cao nhất là 0,653 giữa biến Thái độ nghiên cứu và biến Tính hữu ích nghiên cứu. Do đó, khi sử dụng mô hình hồi quy sẽ ít có khả năng gặp hiện tượng đa cộng tuyến. Kết quả hồi quy các yếu tố ảnh hưởng đến khả năng NCKH (bảng 7) cho thấy, các biến Trình độ, Lĩnh vực nghiên cứu, Thu nhập, Thái độ nghiên cứu, Động cơ nghiên cứu có ý nghĩa thống kê với mức ý nghĩa 5%. Ngoài ra, hệ số VIF của tất cả các biến đều nhỏ hơn 10 chứng tỏ mô hình không có hiện tượng đa cộng tuyến. Đồng thời, giá trị thống kê (Durbin-Watson) d = 1,728 (du = 1,718 < d = 1,728 < 4-1,820 = 2,180) nằm trong miền không có hiện tượng tự tương quan. Như vậy, các biến Trình độ, Lĩnh vực nghiên cứu, Thu nhập, Thái độ nghiên cứu, Động cơ nghiên cứu thỏa mãn tất cả các giả định của mô hình hồi quy, do đó có thể giải thích sự ảnh hưởng của các yếu tố này đến Khả năng NCKH của GV. Chỉ số R2 hiệu chỉnh bằng 0,296 chỉ ra rằng các yếu tố Trình độ, Lĩnh vực nghiên cứu, Thu nhập, Thái độ nghiên cứu, Động cơ nghiên cứu ảnh hưởng và giải thích được 29,6% Khả năng NCKH của GV. Bảng 7. Kết quả hồi quy đa biến, biến phụ thuộc là Khả năng NCKH B Sai số chuẩn Beta t Sig VIF Hằng số 0,677 0,809 0,837 0,404 Giới tính 0,111 0,175 0,037 0,634 0,526 1,335 Trình độ -0,990 0,173 -0,319 -5,734 0,000 1,202 Số năm kinh nghiệm -0,063 0,084 -0,044 -0,760 0,448 1,284 Lĩnh vực nghiên cứu 0,294 0,136 0,120 2,164 0,031 1,206 Thu nhập 0,704 0,155 0,273 4,534 0,000 1,415 Hữu ích nghiên cứu -0,011 0,130 -0,006 -,086 0,933 1,907 Thái độ nghiên cứu 0,209 0,149 0,109 1,410 0,046 1,341 Môi trường nghiên cứu -0,025 0,114 -0,013 -0,219 0,827 1,387 Chuẩn chủ quan -0,134 0,119 -0,070 -1,119 0,264 1,522 Động cơ nghiên cứu 0,314 0,129 0,162 2,433 0,016 1,720 R2 0,544 R2 hiệu chỉnh 0,296 Sig. F Change 0,000 Durbin-Watson 1,728 Mô hình hồi quy phù hợp với mức ý nghĩa 5% có dạng như sau: KN NCKH = 0,677 - 0,990 TrĐ + 0,294 LV + 0,704 TN + 0,209 TDNC + 0,314 DCNC Kết quả phân tích khảo sát GV về nhận thức của họ đối năng lực nghiên cứu của bản thân và điều kiện môi trường nghiên cứu hiện có (bảng 8) cho thấy, các ý kiến trả lời có giá trị trung bình nhỏ hơn 3,0 (mức ít đồng ý với các nhận Bảng 6. Ma trận hệ số tương quan giữa các biến với biến phụ thuộc Khả năng NCKH KN NCKH GT TrĐ KN LV TN HINC TDNC MTNC XH DCNC KN NCKH 1 GT -0,086 1 TrĐ -0,43** 0,163** 1 KN 0,126* -0,074 -0,222 1 LV 0,059 0,373** 0,040 -0,148* 1 TN 0,383** -0,212* -0,359 0,407** -0,135* 1 HINC 0,120* -0,027 -0,013 -0,089 -0,012 0,024 1 TDNC 0,251** -0,251* -0,185 0,061 -0,110* 0,208* 0,653** 1 MTNC 0,122* -0,130* -0,049 -0,056 -0,045 0,170* 0,280** 0,380** 1 XH 0,104* 0,068 -0,075 -0,125* 0,132* 0,065 0,303** 0,340** 0,406** 1 DCNC 0,237** -0,190* -0,120 -0,053 -0,073 0,132* 0,415** 0,519** 0,427** 0,483* 1 **. Correlation is significant at the 0.01 level (1-tailed); *. Correlation is significant at the 0.05 level (1-tailed). XÃ HỘI Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ ● Số 46.2018 50 KINH TẾ định), đồng nghĩa với việc nhận thấy khó khăn trong thực hiện NCKH do các yếu tố năng lực bản thân của GV bao gồm: kiến thức chuyên môn, phương pháp nghiên cứu, kinh nghiệm nghiên cứu, trình độ ngoại ngữ, kỹ năng làm việc, ngoại trừ yếu tố trình độ công nghệ thông tin đánh giá dẫn đến khó khăn trong nghiên cứu ở mức trung bình. Các yếu tố về môi trường làm việc, thời gian làm việc cũng dẫn đến khó khăn trong hoạt động NCKH. Trong quá trình thực hiện khảo sát, nhóm tác giả cũng đã thực hiện phỏng vấn sâu, kết quả là, nhiều GV cho rằng thời gian dành cho hoạt động giảng dạy và hoạt động hỗ trợ giảng dạy như coi thi, chấm thi, chỉnh sửa, xây dựng chương trình đào tạo còn đang chiếm phần lớn cho nên GV không có nhiều thời gian cho hoạt động NCKH. Bảng 8. Kết quả phân tích khảo sát Nhận thức của GV về điều kiện và năng lực nghiên cứu của bản thân Nhận thức về năng lực bản thân của GV Mi n Max Giá trị TB Độ lệch chuẩn Thực hiện NCKH là dễ dàng trong điều kiện về kiến thức chuyên môn của tôi 1 5 2,74 0,875 Thực hiện NCKH dễ dàng trong điều kiện phương pháp nghiên cứu của tôi 1 5 2,74 0, 891 Thực hiện NCKH là dễ dàng trong điều kiện kinh nghiệm của tôi 1 5 2,80 0,936 Thực hiện NCKH là dễ dàng trong điều kiện trình độ ngoại ngữ của tôi 1 5 2,84 0,978 Thực hiện NCKH là dễ dàng trong điều kiện trình độ CNTT của tôi 1 5 3,03 0,911 Thực hiện NCKH là dễ dàng trong điều kiện các kỹ năng làm việc hiện có của tôi 1 5 2,96 0,865 Thực hiện NCKH dễ dàng trong điều kiện thời gian của tôi 1 5 2,56 0,920 Thực hiện NCKH dễ dàng trong điều kiện môi trường làm việc của tôi 1 5 2,84 0,971 Thảo luận Kết quả chạy mô hình hồi quy cho thấy, có năm yếu tố ảnh hưởng đến khả năng NCKH của GV trường Đại học Công nghiệp Hà Nội, bao gồm: trình độ học vấn, lĩnh vực chuyên môn, thu nhập, thái độ nghiên cứu, động cơ nghiên cứu; trong đó, yếu tố trình độ học vấn có mối quan hệ ngược chiều với khả năng hoạt động NCKH, bốn yếu tố còn lại có mối quan hệ thuận chiều; các yếu tố nhận thức về tính hữu ích của NCKH, chi phí NCKH, chuẩn chủ quan, môi trường nghiên cứu, kết quả thống kê không có ý nghĩa. Kết quả này khác với các nghiên cứu trước đây về nhận thức tính hữu ích ảnh hưởng đến ý định thực hiện và hành vi thực hiện. Lý giải điều này, tác giả xem xét nhận thức của GV về tính hữu ích của NCKH đối với bản thân cho thấy, GV được khảo sát đều nhận thức rõ tính hữu ích của NCKH đối với bản thân (gần 90% cùng lựa chọn câu trả lời ở mức Đồng ý đến Rất đồng ý), cả GV chưa tham gia NCKH và đã NCKH ở các mức độ khác nhau nên kết quả thống kê không cho thấy mối quan hệ giữa chúng. Các yếu tố có ảnh hưởng đến NCKH của GV như trình độ học vấn có ảnh hưởng ngược chiều, cũng là kết quả nghiên cứu trái ngược với hiểu biết chung của mọi người đó là trình độ học vấn có mối quan hệ tích cực (thuận chiều) với NCKH, có nghĩa là GV có trình độ học vấn càng cao thì càng thực hiện nhiều NCKH hơn. Tuy nhiên, kết quả này phù hợp với báo cáo của Phòng Khoa học Công nghệ, trường Đại học Công nghiệp Hà Nội về khối lượng hoạt động NCKH của GV trong năm năm gần đây, những GV có trình độ tiến sĩ có xu hướng NCKH giảm đi sau khi hoàn thành chương trình đào tạo tiến sĩ so với thời kỳ là thạc sĩ (giai đoạn nghiên cứu sinh). Mức thu nhập là yếu tố tác động đến khả năng NCKH của GV với xu hướng tác động tích cực (thuận chiều), kết quả này phù hợp với kết quả của các nghiên cứu trước đây. Điều này được giải thích là, GV có mức thu nhập cao hơn nên có điều kiện để dành thời gian cho công việc nhiều hơn. Thu nhập cao sẽ gắn bó GV với nghề nghiệp hơn, từ đó họ có thái độ tốt hơn, trách nhiệm hơn đối với các nhiệm vụ của mình. Động cơ nghiên cứu có tác động tích cực đối với khả năng NCKH, kết quả này phù hợp với các nghiên cứu trước (Ajzen, 1991; Chen và cộng sự, 2006; Nhã, 2016). Hầu hết các GV đều nhận thức được động cơ NCKH là phục vụ cho hoạt động giảng dạy (mức trung bình là 3,52), nâng cao uy tín cho Nhà trường, vì yêu thích và do là quy định bắt buộc. Tuy nhiên, một tiêu chí chưa thực sự đồng thuận với nghiên cứu của Cargile và Bublitz (1986), đã chỉ ra sự thăng tiến trong công việc là một trong những động lực thúc đẩy GV tham gia nghiên cứu, đối với đa số GV của trường Đại học Công nghiệp Hà Nội động cơ này được đánh giá thấp nhất, nghĩa là các GV cho rằng họ NCKH không phải để xây dựng vị thế bản thân. Thái độ nghiên cứu có mối quan hệ thuận với khả năng NCKH của GV, điều này là phù hợp vì thái độ có ảnh hưởng tới hành vi. Phân tích chi tiết cho thấy, thái độ của GV Nhà trường đối với NCKH là khá tốt, quan tâm đến NCKH, coi đó là nhiệm vụ của GV, thấy được là hoạt động mang lại nhiều lợi ích (mức trung bình từ 3,42-3,69). Tuy nhiên, kết quả nghiên cứu chỉ ra mức độ ảnh hưởng của thái độ nghiên cứu đến NCKH là thấp nhất. GV của Nhà trường có thái độ tốt với khả năng NCKH nhưng kết quả NCKH chưa cao. Chuẩn chủ quan (xã hội) không có tác động đến NCKH của GV, có nghĩa là GV không bị ảnh hưởng từ việc NCKH của đồng nghiệp, hiệu quả NCKH từ các nhà khoa học có uy tín hay áp lực xã hội đối với hoạt động NCKH của họ. Có thể giải thích rằng, do Nhà trường đưa quy chế về khối lượng giờ NCKH tối thiểu bắt buộc cho GV nên GV không quan tâm đến những yếu tố tác động từ phía đồng nghiệp, các nhà khoa học có uy tín khác mà họ biết. 5. KHUYẾN NGHỊ VÀ KẾT LUẬN Căn cứ vào kết quả nghiên cứu, tác giả đề xuất một số khuyến nghị nhằm nâng cao khả năng NCKH của GV như sau: ECONOMICS-SOCIETY Số 46.2018 ● Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 51 Một là để giải quyết được sự ảnh hưởng tiêu cực của trình độ chuyên môn đến khả năng NCKH của GV, Nhà trường ngoài việc duy trì quy định các tiến sĩ phải tham gia thực hiện ít nhất 01 đề tài NCKH trong vòng 05 năm sau khi bảo vệ, khối lượng giờ chuẩn NCKH hàng năm, cần yêu cầu/ khuyến khích các tiến sĩ tham gia tích cực hơn vào các nhóm nghiên cứu mạnh, giảm bớt khối lượng giờ giảng tiêu chuẩn, tăng giờ chuẩn NCKH. Đơn giá giảng dạy của tiến sĩ tăng, cao hơn gấp rưỡi so với thạc sĩ trong điều kiện thu nhập thanh toán trực tiếp theo giờ giảng, thu nhập từ đề tài NCKH hạn chế, các bài báo công bố không tăng thu nhập mà còn gia tăng chi phí đối với GV cũng là vấn đề khó khăn đối với Nhà trường. Tương lai, để khuyến khích các GV, nhất là GV có trình độ cao tăng cường NCKH, đặc biệt là các công bố quốc tế để xây dựng thương hiệu cho Nhà trường, cần có chính sách hỗ trợ tài chính tốt hơn. Có thể xây dựng khối lượng giờ NCKH theo định mức, nếu các GV hoàn thành vượt định mức thì phần vượt được chi trả thu nhập giống như hoạt động giảng dạy. Hai là giải quyết vấn đề thu nhập. Thu nhập có ảnh hưởng tích cực và mạnh nhất đối với NCKH, Nhà trường cần tiếp tục có chính sách tăng thu nhập hàng năm cho GV, đặc biệt tăng thu nhập từ hoạt động NCKH. Trong thời gian tới, tính đến hình thức xã hội hóa hoạt động NCKH đặc biệt là các NCKH có thể thương mại hóa. Ba là duy trì thái độ tốt của GV đối với hoạt động NCKH. Tuy nhiên, để thái độ nghiên cứu tốt chuyển hóa thành hành động nghiên cứu cụ thể, cần hỗ trợ GV hoàn thiện năng lực nghiên cứu. Năng lực nghiên cứu của GV còn hạn chế nhiều mặt: phương pháp nghiên cứu, kỹ năng nghiên cứu, năng lực ngoại ngữ. Tiếp tục triển khai khóa bồi dưỡng phương pháp nghiên cứu, tăng cường tổ chức hội thảo, tọa đàm chia sẻ kinh nghiệm nghiên cứu, triển khai rộng đề án ngoại ngữ cho GV. Trong giai đoạn trước mắt, khi tuyển dụng GV đưa yêu cầu ngoại ngữ là tiêu chí bắt buộc, khuyến khích GV nâng cao năng lực ngoại ngữ; đưa năng lực ngoại ngữ vào các tiêu chí đánh giá, phân bậc xếp hạng GV Tăng cường hoạt động sinh hoạt khoa học (chia sẻ ý tưởng nghiên cứu trước khi công bố, báo cáo kết quả nghiên cứu luận án tiến sĩ của các NCS bảo vệ thành công) nhằm bồi dưỡng phương pháp, kỹ năng, kinh nghiệm cho GV. Bốn là có các hình thức khen thưởng từ kết quả NCKH, như: sự thăng tiến trong công việc, tăng lương, giảm khối lượng giảng dạy, đánh giá tốt từ quản lý, xét các danh hiệu thi đua Blackburn và Lawrence (1995), đã chứng minh rằng các hình thức thưởng tạo động cơ NCKH tốt. Khi có động cơ nghiên cứu rõ ràng, GV sẽ tích cực hơn với hoạt động NCKH. Mặc dù, nghiên cứu đã đạt được mục tiêu ban đầu đặt ra, tuy nhiên còn hạn chế, chỉ dừng lại ở đo lường kết quả NCKH của GV thông qua số giờ NCKH, chưa đo lường bằng các tiêu chí khác, như các chỉ số đo lường chất lượng của các kết quả NCKH, đo lường mức ảnh hưởng của các sản phẩm khoa học LỜI CẢM ƠN Nhóm tác giả chân thành cảm ơn các thầy, cô ở các Khoa/ Trung tâm đào tạo trong trường Đại học Công nghiệp Hà Nội đã hỗ trợ nhóm tác giả trong quá trình thực hiện nghiên cứu. Sự hỗ trợ của các thầy, cô góp phần quan trọng để nhóm tác giả hoàn thành nghiên cứu này./. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Abbas, S., 2009. Relationship between teaching and Research: Conflict or harmony? With special focus on Gulan university (faculty of humanities), Iran, Proceedings of the 2nd International conference of Teaching and Learning. 2. Ajzen, I., 1991. Theory of Planned Behaviour. Organization Behaviour anh Human Decision Processes. University of Massachusetts Amhertst. Massachusetts, pp.179-211. 3. Azad, A.N. and Seyyed, F.J., 2007. Factor influence faculty research productivity: Evidence from AACSB accredited schools in the GCC countries. Journal of International Business Research. 6(1): 91-102. 4. Blackburn, R. T. and J. H. Lawrence., 1995. Faculty at work: Motivation, expectation, satisfaction. Baltimore: The Johns Hopkins University Press. 5. Cargile, B and Bublitz, B., 1986. Factors contributing to published research by accounting faculties, Accounting Review, Vol. LXI No. 1, January, pp. 158-78. 6. Chen, Y., Gupta, A. and Hoshower, L., 2006. Factors That Motivate Business Faculty to Conduct Research: An Expectancy Theory Analysis. Journal of Education for Business. 81(4): 179-189, https://doi.org/10.3200/JOEB.81.4.179-189. 7. Katz, E. and Coleman, M., 2001. The Growing Importance of Research at Academic. Colleges of Education in Israel. Education and Training, 43(2): 82-93. 8. Iqbal and Mahmood, 2011. Factors Related to Low Research Productivity at Higher Education Level, Asian Social Science, Vol.7, No.2, DOI: 9. Ismini, V., 2011. What is to be Teacher in Higher Education: The relationship between Teaching and Research?, 6th International Conference in open và Distance Learning-Loutraki, Greece, Proceedings. 10. Mari, E. and Sabine, W., 2016. The relationship between research and education: typologies and indicators. NIFU, https://www.researchgate.net/publication/307477715. 11. Sophia, N., 2009. The Conflicts Between Science Research and Teaching in Higher Education, International Journal of Teaching and Learning in Higher Education. Vol.21, No.1: 75-83. ISSN 1812-9129, https://files.eric.ed.gov/fulltext/EJ896244. 12. Svein, K., 2015. The relationship between research and teaching in the humanities, NIFU, https://www.researchgate.net/publication/. 13. Huỳnh Thanh Nhã, 2016. Các yếu tố ảnh hưởng đến khả năng tham gia NCKH của GV các trường cao đẳng công lập ở thành phố Cần Thơ, Tạp chí khoa học trường Đại học Cần thơ, 46(2016): 20-29. 14. Bùi Anh Tuấn và Phạm Thúy Hương, 2009. Giáo trình Hành vi tổ chức. NXB ĐH KTQD.
File đính kèm:
- yeu_to_anh_huong_den_kha_nang_nghien_cuu_khoa_hoc_cua_giang.pdf