Văn hóa vật chất của người Việt thế kỷ XVII - XIX qua con mắt người phương Tây

Văn hóa Việt Nam là một nền văn hóa phong phú, đa sắc màu, in đậm dấu ấn tính cách, lối

sống của người Việt Nam. Những người Phương Tây đến Việt Nam trong các thế kỷ XVII - XIX, qua quá

trình sinh sống và tiếp xúc với người dân bản địa, họ đã ghi chép hay du ký về đất nước, con người

cũng như đời sống xã hội nơi đây. Tiêu biểu như Cristophoro Borri, William Dampier, Alexandre De

Rhodes, Jean - Baptiste Tavernier, John Barrow, Léopold Pallu, Charles-Édouard Hocquard, Reydellet.

Bằng những ghi chép tổng quát nhưng cũng rất súc tích về vùng đất và con người Việt Nam trong thế kỷ

XVII, XVIII và XIX, các tác giả Phương Tây đã có công lớn trong việc tái hiện lại những tập tục hay cách

sinh hoạt của cư dân Việt với những nét sinh hoạt văn hóa vật chất riêng và độc đáo. Những ghi chép

đó đã để lại nguồn tư liệu có giá trị lớn cho những ai muốn tìm hiểu về nền văn hóa Việt Nam nói chung,

văn hóa vật chất Việt Nam nói riêng ở thế kỷ XVII - XIX.

Văn hóa vật chất của người Việt thế kỷ XVII - XIX qua con mắt người phương Tây trang 1

Trang 1

Văn hóa vật chất của người Việt thế kỷ XVII - XIX qua con mắt người phương Tây trang 2

Trang 2

Văn hóa vật chất của người Việt thế kỷ XVII - XIX qua con mắt người phương Tây trang 3

Trang 3

Văn hóa vật chất của người Việt thế kỷ XVII - XIX qua con mắt người phương Tây trang 4

Trang 4

Văn hóa vật chất của người Việt thế kỷ XVII - XIX qua con mắt người phương Tây trang 5

Trang 5

Văn hóa vật chất của người Việt thế kỷ XVII - XIX qua con mắt người phương Tây trang 6

Trang 6

Văn hóa vật chất của người Việt thế kỷ XVII - XIX qua con mắt người phương Tây trang 7

Trang 7

pdf 7 trang xuanhieu 920
Bạn đang xem tài liệu "Văn hóa vật chất của người Việt thế kỷ XVII - XIX qua con mắt người phương Tây", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Văn hóa vật chất của người Việt thế kỷ XVII - XIX qua con mắt người phương Tây

Văn hóa vật chất của người Việt thế kỷ XVII - XIX qua con mắt người phương Tây
ời giàu có hay thương 
gia thì y phục của họ “là áo dài cài nút ở bên hông, 
quần cắt theo lối Tàu đoan trang hơn của ta, chân mang 
dép da đỏ.” [9, tr.180]. Còn với người nông dân thì y 
phục cực kỳ giản dị “chỉ dùng một miếng vải rộng 
buộc bằng dây lưng gọi là can-chian” [7, tr.181]. 
2.2.2. Trang sức, giày dép và để tóc 
Để làm tôn lên vẻ đẹp cũng như kiểu dáng của 
người phụ nữ, ngoài những bộ trang phục “trang trọng” 
mà giản dị, phụ nữ An Nam còn thích sử dụng nhiều 
loại trang sức khác. Do vậy, tác giả Léopold Pallu đã 
nhận xét rằng người đàn bà An Nam mê nữ trang còn 
hơn cả người đàn bà châu Âu: “Họ đeo nữ trang từ trên 
tóc, trên cổ, ở cánh tay và cổ chân, tùy theo giàu nghèo 
nữ trang làm bằng vàng, cẩm thạch, bạc hay thủy tinh” 
[7, tr.182]. Đối với ông, nữ trang ở đây thật tinh xảo và 
không "rườm rà" còn thợ làm nữ trang thì vô cùng khéo 
léo, họ "tự nấu vàng, cán vàng". 
Trong những ghi chép của mình, Charles-Édouard 
Hocquard đã rất ấn tượng với người phụ nữ An Nam 
trong lần dầu tiên đến Hà Nội. Theo ghi chép của ông: 
“phụ nữ đeo hoa tai và đeo nhẫn. Hoa tai hình khuy 
áo có hai đầu, đối với phụ nữ bình dân, hoa tai được 
làm bằng thủy tinh màu, còn con gái và vợ các quan thì 
mang đồ trang sức bằng vàng bạc. Nhẫn làm bằng dây 
vàng xoắn lại, mốt của họ đòi hỏi nó phải quấn chặt vào 
ngón và đeo vào tận trong ngón tay. Một số phụ nữ tầng 
lớp trên đeo những dây chuyền lớn bằng vàng hay bằng 
bạc, làm bằng những hạt tròn to bằng hạt đậu và xâu 
lại thành nhiều hàng” [4]. 
Không những chú ý đến trang phục và trang sức 
người An Nam, Hocquard còn miêu tả chi tiết về cái 
nón: “Cái nón của phụ nữ Bắc Kỳ rất đồ sộ. Nó có hình 
dáng như một cái nắp hộp tròn, đường kính rộng chừng 
sáu mươi hay bảy mươi phân. Hai bên buộc một chùm 
sáu hay bảy dây nhỏ bằng lụa, tròn như những cái ống 
lông gà, phía giữa thõng vòng xuống trước ngực. Chỗ 
quai buộc vào nón có hai tua bằng lụa đen hay lụa mộc 
rũ xuống như hai cái tai lớn. Một số nón được làm rất 
nghệ thuật bằng lá cọ chọn lựa kỹ càng, bên trong có 
một lớp đan bằng sợi mây chẻ mỏng, giá rất đắt, nhất là 
khi được trang trí bằng hai cái móc bạc chạm trổ để 
buộc cái tua bằng lụa. Nhiều người còn dán một cái 
gương tròn nhỏ dưới đáy nón để soi khi đi ra phố và 
liếc nhìn để chữa lại vành khăn. Cái nón là bộ phận của 
trang phục được các bà duyên dáng nhất chăm sóc rất 
kỹ. Có những chiếc nón bán không dưới mười đến mười 
lăm đồng (tương đương 45 đến 50 franc”[4]. 
Ngoài ra, ông còn nói đến một thứ mũ đội của 
những người quyền quý đó là loại mũ mềm không vành 
lớn, làm cùng thứ vải cùng với áo thụng của họ, còn 
những kẻ thuộc tầng lớp thấp hèn và những dân nghèo 
thường để đầu trần. Những người dân chài và thợ 
thuyền do phải xông pha mưa nắng nên họ đều đội 
những thứ mũ“rộng vành làm bằng sậy, rơm và lá cọ 
lùn”, ông nhận xét về thứ mũ đó là những thứ mũ mà 
khi đội trên đầu thì “không vững vàng, rất tầm thường”. 
Người Đàng Trong ở thế kỷ XVII không có thói 
quen đi dép hay đi giày mà chủ yếu đi chân đất. Khi cần 
họ mang một miếng da buộc mấy dây lụa và khuy trên 
mu bàn chân như kiểu săn đan của người châu Âu. Gắn 
với việc đi chân đất, người Đàng Trong có tục rửa chân 
và bỏ dép ra trước khi vào nhà. 
Người Đàng Ngoài thông thường đi "dép", một vị 
bác sĩ người Pháp Charles - Édouard cũng đã viết: “Khi 
người bình dân không đi chân đất thì họ mang một thứ 
dép làm bằng một cái đế da được giữ vào chân bằng hai 
quai da. Cái quai này thường được bọc vải, tạo trên mu 
bàn chân hình thành chữ V, phía sau mở, góc phía 
trước gắn vào đế giữa ngón chân cái và ngón thứ hai. 
Người Việt có một thói quen kì lạ để đi dép: họ dùng 
ngón cái và ngón thứ hai cặp lấy quai dép như ta dùng 
ngón tay cái và ngón trỏ để cầm một đồ vật, rồi đưa nhẹ 
bàn chân vào dép là quai đã móc vào chân rồi” [4]. 
Theo ông, đế dép của người phụ nữ lúc bấy giờ 
được làm bằng gỗ sơn then đen và phía trước thì cong 
vút lên. Những chỗ cong lên thường được trang trí bằng 
chạm khắc. Những đôi dép đó luôn trượt khỏi chân và 
lại kêu vang lên mỗi khi bước đi, vì vậy mà phụ nữ có 
một lối đi lắc mông không kém phần duyên dáng. 
Dép, theo như Charles-Édouard, chính là thứ để đi 
phổ biến của người Việt ở thế kỷ XIX, bây giờ ở Bắc Kỳ 
chỉ có những người bình dân mới dùng nó. Người giàu và 
các quan đều đi giày Trung Quốc đế giày mũi nhọn, hay 
những đôi dép "bằng da đen", thậm chí cả giày châu Âu. 
 Lê Thị Thu Hiền, Nguyễn Thị Hoa 
36 
Phụ nữ thuộc tầng lớp giàu có thường đi một thứ dép bịt 
kín mũi đầu nhọn và rất cong giống như dép của người 
Mã Lai và Campuchia. Mốt của những phụ nữ giàu có lúc 
này là đôi dép hẹp và ngắn hơn bàn chân, khiến cho 
những bà điệu đà chỉ đút vừa đầu ngón chân vào dép, họ 
đi kéo lê bàn chân, khiến họ có dáng đi đung đưa như phụ 
nữ Trung Quốc. Chân đi giày dép thường để trần, chỉ 
sang mùa đông người Bắc Kỳ mới đi bít tất đan bằng sợi, 
có ngón cái tách khỏi các ngón khác. 
Từ xưa người Việt rất coi trọng hàm răng và mái 
tóc vì “Cái răng cái tóc là góc con người”. Mái tóc là 
một trong những yếu tố để đánh giá nét đẹp của một con 
người. Những người Phương Tây khi đến đây đã nhận 
thấy sự khác biệt trong cách để tóc của người Việt với 
người Phương Tây: “Họ không thể thưởng thức cách cắt 
tóc ngắn và cắt móng tay của chúng ta, họ lấy lí do là 
thiên nhiên ban cho các thứ đó để trang trí bản thân con 
người” [2, tr.55-56]. Cũng trong tác phẩm "Xứ Đàng 
Trong năm 1621" của Borri, cả phụ nữ và đàn ông Đàng 
Trong đều để tóc xõa và rủ xuống vai, có người để tóc 
dài chấm đất và "càng dài được cho là càng đẹp” [2, 
tr.54]. Tóc của người Việt đen, tóc được để mọc dài một 
cách tự nhiên và họ chải tóc rất cẩn thận. Cả đàn ông và 
phụ nữ đều để tóc dài, xõa xuống tận gót chân hoặc là 
tết tóc lại, búi tóc lên thành búi to ở trên đỉnh đầu. Còn 
những người quý phái, những quan tòa và binh lính 
quấn lại những bím tóc tết đó ở quanh cổ cho chúng 
khỏi đập vào mặt. Chính điều này đã gây khó khăn lớn 
cho những người Phương Tây khi vừa đến "xứ sở kì lạ 
này" trong việc phân biệt đàn ông và phụ nữ từ cái nhìn 
đầu tiên. Charles-Édouard - một bác sĩ quân y đã theo 
quân viễn chinh Pháp đến Bắc Kỳ từ tháng 2-1884, đã 
rất khó khăn để phân biệt giữa người đàn ông và người 
đàn bà, ông nói: "Cả hai đều để tóc như nhau". Và ông 
cũng miêu tả đầy đủ hơn về việc chăm sóc một cách cẩn 
thận mái tóc của người Bắc Kỳ xưa: “Người Bắc Kỳ có 
tóc đẹp và dài: không hiếm khi nhìn thấy những người 
đàn bà có tóc xõa dài xuống tận gót chân. Họ chăm sóc 
rất cẩn thận và thường gội bằng một thứ nước có xà 
phòng và sau đó để xõa tóc phơi dưới ánh mặt trời, họ 
thường ngồi xổm tóc xõa sau lưng để hong khô” [4]. 
2.3. Nhà ở 
Trong tác phẩm “Một chuyến du hành đến Đàng 
Ngoài năm 1688” của học giả William Dampier, ông đã 
nhận xét về nhà ở của người dân Đàng Ngoài rất “tầm 
thường”. Ông viết: “Nhà thì nhỏ và thấp, tường chỉ làm 
bằng bùn trát hoặc một tấm liếp gỗ, bên ngoài trát bùn, 
mái lợp bằng rơm rất tồi tàn, nhà thấp quá nên không 
có gác, tuy vậy họ ngăn ra thành nhiều gian sát mặt đất 
với những tấm phên đan bằng tre hay cọc được dùng 
vào nhiều việc khác nhau” [7, tr.62]. Ông đã miêu tả rất 
tỉ mỉ về kết cấu bên trong của một ngôi nhà. Theo đó, 
mỗi ngôi nhà có nhiều gian, mỗi gian có một cửa sổ để 
lấy ánh sáng, đồ đạc trong những gian buồng ấy khá sơ 
sài: “gian buồng có 1 đến 2 chiếc giường ọp ẹp, hoặc 
nhiều hơn tùy theo số nhân khẩu của gia đình”, đó là 
những gian ở trong còn những gian ngoài có những 
chiếc ghế đẩu, ghế dài hay ghế tựa và còn có những 
chiếc bàn. Mỗi nhà đều có các gian dùng để làm chỗ ăn 
uống và chỗ ngủ riêng. 
Nhà của người Đàng Ngoài cũng được các giáo sĩ 
thừa sai Phương Tây miêu tả một cách cụ thể trong các 
thư mà họ viết rồi gửi về cho các cha xứ, hay anh em của 
họ. Bằng chứng là ở trong bức thư của Giám mục chánh 
tòa Reydellet cai quản giáo phận xứ Đoài ở Đông Kinh 
(tức là Đàng Ngoài) gửi cho em trai ông là Hiệu phó 
Trường De la Marche ở Paris (Pháp). Trong thư ông đã 
nhận xét về nhà cửa và chỗ ở của người Đàng Ngoài rất 
đơn giản và chẳng có gì là đồ sộ. Ông viết: “cũng 
chẳng có gì là kiểu sức mà chỉ là những thứ nhà chợ, chỉ 
có tầng trệt và phần đông là thấp lè tè. Những căn nhà ấy 
đều lợp rơm hoặc cói và thường phải lợp lại nhiều lần. 
Vách thì đan bằng vài cây lau cây sậy và trát lên một lớp 
đất dày khoảng hai ngón tay” [3, tr.67-68]. Và ông nói 
rằng, các nhà ở xứ này thường rất ít có cửa sổ, ban ngày 
dù đóng hết cửa chính mà không có cửa sổ thì các 
phòng trong nhà vẫn sáng, còn những khi có gió thì phải 
khó nhọc lắm mới giữ cho ngọn đèn trong nhà không bị 
gió thổi tắt. Theo ông, sự khác biệt giữa nhà của người 
Đàng Ngoài và nhà ở xứ ông ở chỗ nhà ở đây không có 
tầng hầm như nhà ở Phương Tây. 
Giống nhà của người Đàng Ngoài, nhà ở Đàng Trong 
theo miêu tả của tác giả Léopold Pallu rất thấp, trông có 
vẻ tối tăm, kín đáo và buồn thảm. Ông viết: “nhà xây 
theo lối ba gian hai chái và chỉ có tầng trệt. Mái nhà 
nghiêng xuống thật thấp, chỉ cách mặt đất vài chân, do đó 
bên trong tối om ngay cả giữa ban ngày” [7, tr.183]. 
Nhà giữa người giàu và người nghèo theo ông chỉ khác 
nhau về vật liệu dùng để dựng nhà “Nhà của người nghèo 
thì lợp lá dừa lùn xếp chồng lên nhau như nhà lợp rơm của 
ta, sườn nhà thì làm bằng tre và người An Nam chỉ cần hai 
 ISSN 1859 - 4603 - Tạp chí Khoa học Xã hội, Nhân văn & Giáo dục, Tập 5, số 3(2015), 32-38 
 37 
đến ba ngày là làm xong một căn nhà Nhà của người 
giàu thì lợp bằng ngói đỏ, kèo nhà làm bằng gỗ cẩm lai, 
rất dễ đánh cho bóng láng” [7, tr.183]. 
2.4. Phương tiện đi lại 
Trong xã hội Việt Nam cổ truyền, do bản chất nông 
nghiệp sống định cư cho nên con người ít có nhu cầu đi 
lại, di chuyển, có đi thì đi gần nhiều hơn đi xa. Vì vậy, 
dễ hiểu tại sao trước đây ở Việt Nam, giao thông thuộc 
loại lĩnh vực kém phát triển nhất, khác hẳn với Phương 
Tây là nơi của những nền văn hóa gốc du mục. Về 
mặt phương tiện đi lại, người Việt Nam đi đường thủy 
nhiều hơn đường bộ. Theo lời của J. Barrow, "có một 
ngành đặc biệt trong các nghề mà xứ Đàng Trong hiện 
nay có thể tự hào được. Đó là kĩ thuật đóng thuyền biển, 
ở đây có nhiều loại thuyền... Thuyền biển của họ đi 
không nhanh lắm nhưng rất an toàn. Bên trong được 
chia thành nhiều khoang, loại này rất chắc có thể bị 
đâm vào đá ngầm mà vẫn không bị chìm vì nước chỉ vào 
được một khoang mà thôi. Hiện nay ở bên Anh đã bắt 
chước cách làm này để đóng tàu" [5, tr.91-93]. Còn 
Jean - Baptiste Tavernier cho biết thêm chèo thuyền là 
một nghề kiếm tiền của người dân xứ này, thậm chí họ 
kiếm được nhiều tiền hơn những nghề khác. Ông viết: 
“Họ chèo đứng, quay mặt về mũi thuyền, khác hẳn với 
chúng ta là quay lưng về phía trước” [6, tr.73]. 
Bên cạnh việc sử dụng phương tiện đi lại chủ yếu là 
thuyền, thì các giáo sĩ, linh mục Phương Tây cũng đã 
chứng kiến cảnh “Nhà vua ngồi trên một cái kiệu lộng lẫy 
do 8 người khiêng Nhưng khi về nông thôn, nhà vua 
cưỡi voi, còn các vương hầu cưỡi ngựa. Khi hoàng thái 
hậu hay hoàng hậu du ngoạn, họ ngồi trên cáng có mành 
cánh sáo che để có thể nhìn ra ngoài được” [6, tr.80]. 
Giao thông đường bộ ở Việt Nam lúc này chỉ là những 
con đường nhỏ, phương tiện đi lại và vận chuyển ngoài 
sức trâu, ngựa, voi thì chủ yếu là đôi chân, quan lại thì 
di chuyển bằng cáng, kiệu. 
3. Kết luận 
Trong quá trình đến Việt Nam truyền giáo, các giáo 
sĩ Phương Tây hết sức quan tâm đến văn hóa của người 
Việt. Qua các tác phẩm của một số giáo sĩ như 
Cristophoro Borri, Alexande De Rhodes, J. Barrow, 
cùng với nhiều bức thư báo cáo tình hình truyền giáo ở 
Việt Nam của các giáo sĩ Phương Tây gửi về châu Âu 
lúc bấy giờ thì nền văn hóa của Việt Nam nói chung, 
văn hóa vật chất nói riêng ở những thế kỷ XVII - XIX 
được miêu tả hết sức tỉ mỉ và qua đó thể hiện cách nhìn 
nhận, đánh giá của người Phương Tây đối với nền văn 
hóa Việt Nam. 
Đồng thời, những ghi chép của các tác giả Phương 
Tây đến Việt Nam trong các thế kỷ XVII, XVIII, XIX 
còn giúp chúng ta có thêm hiểu biết về những giá trị văn 
hóa vật chất của người Việt ở giai đoạn này, bổ sung 
phần khuyết thiếu trong các nguồn sử liệu dưới thời 
phong kiến Việt Nam. 
Những ghi chép của các giáo sĩ cũng như các bức 
thư được gửi về châu Âu lúc bấy giờ là nguồn tài liệu, là 
kết quả của quá trình thăm dò, tìm hiểu tình hình ở Việt 
Nam của người châu Âu, mở đường cho thực dân 
Phương Tây xâm lược nước ta vào thế kỉ XIX. Tuy 
nhiên, nằm ngoài những ý đồ trên của thực dân Phương 
Tây, những ghi chép, những bức thư, các bài báo cáo của 
các giáo sĩ đã để lại nhiều công trình có giá trị để nghiên 
cứu về văn hóa Việt Nam trong thời đại ngày nay. 
Tài liệu tham khảo 
[1] Alexandre De Rhodes (1994), Hành trình và truyền 
giáo, Nxb Tổng hợp TP Hồ Chí Minh, TP.HCM. 
[2] Cristophoro Borri (1998), Xứ Đàng Trong năm 
1621, Nxb TP Hồ Chí Minh, TP Hồ Chí Minh. 
[3] Nguyễn Minh Hoàng (dịch) (2013), Thư của các 
giáo sĩ thừa sai, Nxb Văn học, Hà Nội. 
[4] Đào Hùng (2013), Phụ nữ Bắc Kỳ xưa qua con 
mắt người nước ngoài, 
hoa-lich-su/phu-nu-bac-ky-xua-qua-con-mat-
nguoi-nuoc-ngoai. 
[5] J. Barrow (1806), Một chuyến du hành đến xứ 
Nam Hà (1792 - 1793), Nxb Thế giới, Hà Nội. 
[6] Jean - Batiste Tavernier (2006), Tập du ký mới và 
kỳ thú về vương quốc Đàng Ngoài, Nxb Thế giới, 
Hà Nội. 
[7] Léopold Pallu (2008), Lịch sử cuộc viễn chinh 
Nam Kỳ năm 1861, Nxb Phương Đông, TP.HCM. 
[8] William Dampier (2011), Một chuyến du hành đến 
Đàng Ngoài năm 1688, Nxb Thế giới, Hà Nội. 
 Lê Thị Thu Hiền, Nguyễn Thị Hoa 
38 
THE MATERIAL CULTURE OF VIETNAMESE PEOPLE IN THE XVII - XIX CENTURIES 
THROUGH WESTERN EYES 
Abstract: The Vietnamese culture is characterized by its diversity and brimming with the personality and lifestyle of the 
Vietnamese people. The Westerners who came to Viet Nam in the XVII - XIX centuries, through the process of living and interacting 
with the native people, kept records or travel diaries about the country, the people as well as the social life here. Typical authors 
included Crstophoro Borri, William Dampier, Alexandre De Rhodes, Jean - Baptiste Tavernier, John Barrow, Léopo Pallu, Charles-
Édouard Hocquard and Reydellet. Their extensive and succinct notes about the land and the people of Viet Nam in the centuries 
XVII-XVIII made a great contribution to the restoration of the customs and routines of the Vietnamese residents with the unique and 
distinctive features of a lifestyle in a material culture. Those records have become valuable resources for those who are interested in 
learning about the Vietnamese culture in general and the material culture of Viet Nam in the XVII - XIX centuries in particular. 
Key words: material culture; the XVII - XIX centuries; Westerner; Borri Crstophoro; Jean - Baptiste Tavernier. 

File đính kèm:

  • pdfvan_hoa_vat_chat_cua_nguoi_viet_the_ky_xvii_xix_qua_con_mat.pdf