Vai trò của kiểm toán nhà nước trong kiểm toán thu ngân sách trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh và một số vấn đề
“Sứ mệnh của KTNN không chỉ góp phần vào sự minh bạch và bền vững của nền tài chính quốc gia mà còn góp phần bảo vệ và giữ gìn niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Chính phủ và cả hệ thống chính trị.”. Đó là đánh giá của nguyên Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng về vai trò của Kiểm toán nhà nước. Vai trò của KTNN được thể hiện rõ trong hệ thống các công cụ kiểm tra, kiểm soát của Nhà nước, nhằm góp phần đảm bảo phân bổ, quản lý, sử dụng các nguồn lực tài chính công, tài sản công một cách hợp lý, tiết kiệm và hiệu quả, ngăn ngừa các hành vi tiêu cực, tham nhũng, lãng phí; góp phần tích cực vào bảo vệ và giữ gìn niềm tin của nhân dân đối với đường lối lãnh đạo của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước. Trong phạm vi bài viết này, chỉ đề cập đến vai trò của Kiểm toán nhà nước trong kiểm toán thu ngân sách trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Tóm tắt nội dung tài liệu: Vai trò của kiểm toán nhà nước trong kiểm toán thu ngân sách trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh và một số vấn đề
ông, tài sản công và các hoạt động có liên quan đến việc quản lý, sử dụng tài chính công, tài sản công của đơn vị được kiểm toán. Nội hàm tài chính công, tài sản công đã được quy định rõ tại Điều 53 và Điều 55 của Hiến pháp và tại khoản 10, khoản 11 Điều 3 Luật KTNN số 81/2015/ QH13 ngày 24/6/2015. Về đơn vị được kiểm toán, Luật quy định đơn vị được kiểm toán là cơ quan, tổ chức quản lý, sử dụng tài chính công, tài sản công (Điều 3); Điều 55 Luật chỉ rõ 12 nhóm cơ quan, đơn vị thuộc đơn vị được kiểm toán của KTNN. Cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan đến hoạt động KTNN có trách nhiệm cung cấp đầy đủ, chính xác, kịp thời thông tin, tài liệu theo yêu cầu của KTNN, kiểm toán viên nhà nước và chịu trách nhiệm trước pháp luật về tính chính xác, trung thực, khách quan của thông tin, tài liệu đã cung cấp (khoản 1 Điều 68). Hoạt động kiểm toán của Kiểm toán nhà nước là việc đánh giá và xác nhận tính đúng đắn, trung thực của các thông tin tài chính công, tài sản công hoặc báo cáo tài chính liên quan đến quản lý, sử dụng tài chính công, tài sản công; việc chấp hành pháp luật và hiệu quả trong việc quản lý, sử dụng tài chính công, tài sản công. Từ cơ sở lý luận trên đây, có thể nhận thấy rằng đối tượng của hoạt động kiểm toán thu ngân sách 26 VAI TROØ CUÛA KTNN TRONG COÂNG TAÙC QUAÛN LYÙ THUEÁ NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁNSố 138 - tháng 4/2019 tại địa phương là: Hoạt động thu ngân sách, bao gồm hoạt động thu thuế, thu phí, lệ phí; thu các khoản thu trên đất như tiền sử dụng đất; tiền bán tài sản công do địa phương quản lý. Hoạt động quản lý nhà nước về thu ngân sách, được thực hiện bởi các cơ quan quản lý thuế, cơ quan quản lý hải quan, các đơn vị vũ trang, đơn vị sự nghiệp được giao nhiệm vụ thu phí, lệ phí trên địa bàn tỉnh theo quy định của pháp luật. Như vậy, theo những quy định trên thì các chủ thể như: Cơ quan, tổ chức, cá nhân có nghĩa vụ nộp ngân sách nhà nước; các đơn vị, tổ chức, chủ đầu tư sử dụng, khai thác đất đai, tài nguyên khoáng sản sẽ không phải là đơn vị thuộc đối tượng được kiểm toán do không phải là cơ quan, đơn vị trực tiếp quản lý, sử dụng tài chính công, tài sản công, mặc dù trên thực tế, chính các cơ quan, tổ chức, cá nhân này lại có hoạt động liên quan trực tiếp đến hoạt động của các cơ quan có nghĩa vụ thu ngân sách nhà nước, cơ quan có chức năng quản lý tài sản quốc gia. Để có tài liệu, căn cứ đánh giá tính đúng đắn, xác thực của hoạt động thu ngân sách, Kiểm toán nhà nước phải gián tiếp sử dụng nghiệp vụ đối chiếu so sánh giữa hoạt động quản lý thu ngân sách của các cơ quan được giao nhiệm vụ thu với các chủ thể có nghĩa vụ nộp ngân sách nhà nước. Đây chính là điều bất cập trong Luật kiểm toán hiện nay. 2. Cơ sở thực tiễn Trên thực tế, kết quả kiểm toán thu ngân sách (thu thuế, phí, lệ phí) tại địa phương trong những năm đã thu được một số kết quả, như sau: a. Số tăng thu ngân sách nhà nước qua kiểm toán Đơn vị tính: Triệu đồng Năm kiến nghị thu Đã thực hiện đến 31/12/2018 Chưa thực hiện 2010 18.077 14.101 3.976 2012 11.107 11.107 0 2014 3.543 2.236 1.307 2016 2.275 2.275 0 2017 14.794 14.794 0 b. Tác động từ hoạt động kiểm toán đến hoạt động quản lý thu NSNN Bên cạnh sự chỉ đạo sát sao của cấp ủy, chính quyền các cấp, sự nỗ lực của các cơ quan đơn vị được giao nhiệm vụ quản lý thu ngân sách trên địa bàn. Thu ngân sách tại địa phương luôn luôn hoàn thành các chỉ tiêu pháp lệnh do Trung ương giao. Qua kiểm toán đã góp phần tăng cường ý thức trách nhiệm của cơ quan quản lý thu ngân sách và đối tượng có nghĩa vụ nộp các khoản thu ngân sách trên địa bàn. Mặc dù, UBND tỉnh đã chỉ đạo các đơn vị có liên quan nghiêm túc thực hiện kết luận của Kiểm toán nhà nước, nhưng đến nay vẫn còn tồn đọng một phần kiến nghị thu ngân sách theo kết luận của Kiểm toán nhà nước chưa thực hiện xong, như năm 2010 là 3.976 triệu/18.077 triệu phải thu, chiếm 22%; năm 2014 là 1.307 triệu/ 3.543 triệu phải thu, chiếm 37%. Tuy nhiên, khi xem xét đánh giá số tồn đọng trên có những nguyên nhân sau: Thứ nhất, Số liệu kiến nghị của thu ngân sách của Kiểm toán nhà nước bị tồn đọng, hầu hết là số đối chiếu chênh lệch giữa giá trị khối lượng hoàn thành với số liệu đã khai thuế của các công trình xây dựng chưa được phê duyệt quyết toán, làm phát sinh thêm nghĩa vụ thuế tại thời điểm đối chiếu. Song, sau khi quyết toán, giá trị công trình được phê duyệt thấp hơn so với dự toán, nên bị điều chỉnh tổng mức dự toán, từ đó phải điều chỉnh giảm nghĩa vụ thuế; có dự án thuộc diện được ghi thu, ghi chi do doanh nghiệp vừa trúng đấu giá tiền 27NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN Số 138 - tháng 4/2019 sử dụng đất, đồng thời trúng đấu giá công trình xây dựng hạ tầng. Tại thời điểm Kiểm toán đối chiếu nghĩa vụ thuế, doanh nghiệp chưa lập đủ hồ sơ để thực hiện ghi thu, ghi chi nên chưa có cơ sở lập hóa đơn và kê khai thuế. Thứ hai, có một vài trường hợp, doanh nghiệp phải thực hiện kiến nghị nộp thuế sau đối chiếu, mặc dù các cơ quan chức năng đã áp dụng các biện pháp cưỡng chế, nhưng do đơn vị lâm vào tình trạng khó khăn, thậm chí phá sản nên không thể thực hiện được kiến nghị của Kiểm toán. c. Hạn chế, bất cập trong hoạt động KTNN Do quy định của Luật Kiểm toán nhà nước hiện hành dẫn đến việc nhận thức và áp dụng pháp luật kiểm toán chưa thống nhất. Các khái niệm “đối tượng kiểm toán”, “đơn vị được kiểm toán”, “cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan đến nghĩa vụ nộp ngân sách nhà nước” đã không tách biệt. Vì vậy, nếu không phải là đơn vị được kiểm toán thì chủ thể là tổ chức, cá nhân có liên quan đến nghĩa vụ nộp ngân sách nhà nước sẽ không chịu sự kiểm toán của KTNN khi thực hiện kiểm toán tại các cơ quan, đơn vị thu ngân sách nhà nước. Mặt khác, theo quy định của pháp luật về quản lý thuế hiện hành thì người nộp thuế chỉ bị điều chỉnh bởi hoạt động kiểm tra, thanh tra của cơ quan quản lý thuế trên cơ sở đánh giá rủi ro. Ngoài ra, người nộp thuế còn có thể được cơ quan Thanh tra Nhà nước thanh tra về chấp hành nghĩa vụ nộp ngân sách nhà nước; hoặc cơ quan điều tra thực hiện điều tra tội trốn thuế. Luật Quản lý Thuế chưa quy định nghĩa vụ cung cấp hồ sơ, tài liệu cho cơ quan kiểm toán làm căn cứ đối chiếu khi thực hiện kiểm toán thu ngân sách. Chính vì điều này, khi tiến hành hoạt động kiểm tra, đối chiếu đối với các đơn vị, tổ chức có liên quan, Kiểm toán nhà nước có thể sẽ gặp trường hợp không hợp tác, không chấp hành cung cấp tài liệu, không thực hiện kết luận của Kiểm toán nhà nước. Vừa qua, Bộ Tài chính đã trình Dự thảo Luật Quản lý Thuế (sửa đổi). Theo đó, tại nội dung quy định về chấp hành kết luận của cơ quan Thanh tra, Kiểm toán nhà nước, Dự thảo chỉ quy định việc 28 VAI TROØ CUÛA KTNN TRONG COÂNG TAÙC QUAÛN LYÙ THUEÁ NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁNSố 138 - tháng 4/2019 xử lý kết luận của thanh tra, Kiểm toán nhà nước (KTNN) khi thanh tra, kiểm toán cơ quan quản lý thuế và có kết luận, kiến nghị về nghĩa vụ thuế của người nộp thuế. Hay nói cách khác là giải quyết mối quan hệ giữa cơ quan quản lý thuế, người nộp thuế và các cơ quan có liên quan. Trường hợp cơ quan thanh tra, kiểm toán thực hiện thanh tra, kiểm toán các hoạt động đối với cơ quan quản lý thuế, trong đó có hoạt động đối chiếu nghĩa vụ của người nộp thuế thì cơ quan quản lý thuế phải thực hiện theo kết luận, kiến nghị của cơ quan thanh tra, kiểm toán. Vấn đề đặt ra là việc thực hiện phải được xử lý bằng quyết định hành chính và nghĩa vụ thực hiện ở đây là người nộp thuế. Trong trường hợp ban hành quyết định thanh tra, kiểm tra tại trụ sở người nộp thuế, có kết luận và quyết định xử lý nếu không thống nhất người nộp thuế có quyền khiếu nại và khởi kiện. Cụ thể: Người nộp thuế có quyền khiếu nại 2 lần (lần 1 với cơ quan quản lý thuế ra quyết định xử lý thuế, lần 2 với cơ quan quản lý thuế cấp trên), trường hợp không đồng ý với quyết định giải quyết khiếu nại thì người nộp thuế có quyền khởi kiện cơ quan quản lý thuế ra Tòa án. Như vậy, khi Kiểm toán nhà nước tiến hành kiểm toán ngân sách tại một địa phương, sẽ có một tổ kiểm toán tại cơ quan thuế. UBND tỉnh luôn chỉ đạo Cục Thuế phối hợp chặt chẽ, cung cấp hồ sơ cho cơ quan kiểm toán. Sau khi kết thúc, Cơ quan Kiểm toán sẽ lập biên bản kiểm soát, đối chiếu, từ đó ra số chênh lệch về thuế, những sai phạm về thuế của các doanh nghiệp sẽ được tổng hợp kết luận trong Báo cáo kiểm toán và kiến nghị thu hồi. Tuy nhiên, có thể thời điểm Kiểm toán nhà nước vào kiểm toán thì DN đã tự tính, tự khai nhưng chưa đúng, nhưng sau đó người nộp thuế còn có quyền kê khai bổ sung vì Luật Quản lý Thuế hiện hành cho phép khai bổ sung trước khi cơ quan nhà nước có thẩm quyền công bố quyết định thanh tra, kiểm tra tại doanh nghiệp. Có thể nhận thấy, đây là điểm bất cập lớn trong chính sách quản lý thuế với hoạt động kiểm toán. Bởi lẽ, khi Kiểm toán nhà nước thực hiện đối chiếu số liệu kê khai nghĩa vụ nộp thuế của người nộp thuế, để xác định số thuế còn thiếu chưa kê khai nộp vào ngân sách còn khiên cưỡng, do hoạt động đối chiếu của Kiểm toán nhà nước không phải là hoạt động kiểm tra, thanh tra của cơ quan nhà nước có thẩm quyền (không có quyết định kiểm tra, thanh tra), nên người nộp thuế không bị hạn chế quyền kê khai điều chỉnh, bổ sung các khoản kê khai nghĩa vụ khai sai, khai thiếu. Trên cơ sở pháp luật về thanh tra, pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính, pháp luật về thuế và Nghị quyết số 19 của Chính phủ về cắt giảm thủ tục hành chính, Cơ quan thuế đã thực hiện kiểm tra, thanh tra thuế theo kết quả đánh giá, phân tích rủi ro. Hằng năm, đưa 18-20% doanh nghiệp vào diện thanh tra, kiểm tra. Kết quả thanh tra, kiểm tra cho thấy tỷ lệ doanh nghiệp có sai phạm lên đến 95% (có đơn vị sai vài ba trăm nghìn đồng, nhưng cũng có đơn vị bị truy thu hàng tỷ đồng). Điều này cho thấy, một mặt kết quả phân tích, đánh giá rủi ro để đưa vào diện thanh tra, kiểm tra của ngành thuế có tỷ lệ chuẩn xác cao; mặt khác cũng có thể đánh giá tỷ lệ doanh nghiệp vi phạm nghĩa vụ nộp thuế cũng còn cao. Để tránh chồng chéo, gây phiền hà, ảnh hưởng đến hoạt động của doanh nghiệp, các doanh nghiệp trong diện thanh tra, kiểm tra trong năm sẽ được ưu tiên trước cho cơ quan Thanh tra Chính phủ và cơ quan Kiểm toán nhà nước thực hiện. Tổ chức, cá nhân có nghĩa vụ nộp ngân sách nhà nước nói chung, nộp thuế nói riêng cùng lúc bị điều chỉnh bởi nhiều chính sách pháp luật như các Luật thuế chuyên ngành (theo sắc thuế, luật quản lý thuế) còn bị điều chỉnh bởi pháp luật về đầu tư, pháp luật về đất đai, về quản lý tài nguyên... nên đôi khi kết luận của Cơ quan Kiểm toán với cơ quan thuế cũng có những chỗ chưa thống nhất. Điều này thường dẫn đến hệ lụy cho người nộp thuế có thể chấp hành hoặc không chấp hành kết luận của Kiểm toán nhà nước. Cá biệt có thể doanh nghiệp 29NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN Số 138 - tháng 4/2019 còn phải khởi kiện để xử lý tranh chấp tại Tòa án. Trong khi, quy định của pháp luật thuế hiện nay thì cơ quan quản lý thuế phải luật hóa kết luận thu thuế của Kiểm toán nhà nước bằng một Quyết định hành chính để người có nghĩa vụ nộp ngân sách nhà nước có nghĩa vụ phải thực hiện. Như vậy, khi bị khởi kiện hành chính thì cơ quan Thuế mới là bị đơn. Điều này cho thấy sự phi logic trong mối quan hệ nhân quả. 3. kiến nghị, đề xuất Để khắc phục bất cập trong hoạt động kiểm toán thu ngân sách, khi Kiểm toán nhà nước thực hiện nghiệp vụ đối chiếu nghĩa vụ nộp ngân sách của tổ chức, cá nhân có nghĩa vụ liên quan đến thu Ngân sách Nhà nước; khắc phục tình trạng kết luận của Kiểm toán nhà nước phải thông qua Quyết định hành chính của cơ quan quản lý thuế để yêu cầu tổ chức, cá nhân thực hiện kết luận kiểm toán của Kiểm toán nhà nước. Khắc phục tình trạng nhận thức về đối tượng kiểm toán quy định tại Khoản 10, Khoản 11 Điều 13 Luật Kiểm toán nhà nước. Theo đó, đang tồn tại nhận thức các chủ thể như: Cơ quan, tổ chức, cá nhân có nghĩa vụ nộp ngân sách nhà nước; các đơn vị, tổ chức, chủ đầu tư sử dụng, khai thác đất đai, tài nguyên khoáng sản sẽ không phải là đơn vị được kiểm toán do không phải là cơ quan, đơn vị trực tiếp quản lý, sử dụng tài chính công, tài sản công, mặc dù trên thực tế, chính các cơ quan, tổ chức, cá nhân này lại có hoạt động liên quan đến hoạt động của các cơ quan có nghĩa vụ thu ngân sách nhà nước, cơ quan có chức năng quản lý tài sản quốc gia. Nhằm tăng cường hiệu lực quản lý của các cơ quan Nhà nước, chống thất thu ngân sách nhà nước; đồng thời đảm bảo hoạt động kiểm tra, thanh tra, kiểm toán không bị chồng chéo gây phiền hà đến tổ chức, cá nhân có nghĩa vụ nộp ngân sách nhà nước. Kiến nghị sửa đổi bổ sung Luật Kiểm toán theo hướng mở rộng đối tượng kiểm toán bao gồm cả cơ quan, tổ chức, cá nhân có nghĩa vụ nộp ngân sách nhà nước; các đơn vị, tổ chức, chủ đầu tư sử dụng, khai thác đất đai, tài nguyên khoáng sản để đảm bảo áp dụng các quyền và nghĩa vụ của đơn vị được kiểm toán đối với các cơ quan, tổ chức này. Đồng bộ và thống nhất giữa Luật Kiểm toán nhà nước với các luật chuyên ngành khác như Luật Quản lý thuế, Luật Thanh tra để đảm bảo hoạt động kiểm tra, giám sát của các cơ quan Nhà nước không bị chồng chéo, nhưng cũng không bỏ sót; đồng thời áp dụng nguyên tắc cơ quan nào kết luận thì cơ quan đó có trách nhiệm giải trình, xử lý khiếu nại. Trách nhiệm tổ chức thực hiện kết luận kiểm toán là của UBND các cấp và của các cơ quan quản lý Nhà nước thuộc ngành, lĩnh vực quản lý. Tuy nhiên, để đảm bảo tính khách quan, minh bạch và đúng với bản chất kinh tế của các giao dịch làm phát sinh nghĩa vụ nộp ngân sách, đồng thời không để tình trạng tồn đọng ảo khi thực hiện kết luận kiểm toán. Đề nghị hàng năm, trên cơ sở rà soát, báo cáo của UBND các cấp, của các đơn vị thuộc đối tượng kiểm toán nếu có đủ hồ sơ thì xem xét điều chỉnh kết luận kiểm toán đã ban hành. kết luận Quản lý, điều hành ngân sách nhà nước tại địa phương luôn là nhiệm vụ chính trị, quyết định đến hiệu quả quản lý kinh tế - xã hội tại địa phương. Trong đó, chỉ đạo, điều hành công tác thu ngân sách là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu. Trong những năm qua, thông qua hoạt động kiểm toán ngân sách địa phương của Kiểm toán nhà nước đã giúp cho hoạt động điều hành ngân sách của UBND tỉnh luôn luôn sát thực, hiệu quả. Kịp thời ngăn ngừa, phát hiện và kiến nghị xử lý những vi phạm về quản lý NSNN, giúp UBND tỉnh điều hành, quản lý chặt chẽ Ngân sách Nhà nước nhằm chống thất thu, bội chi, lãng phí ở các cơ quan, đơn vị; góp phần làm minh bạch hoạt động thu chi ngân sách của địa phương, từ đó xây dựng và củng cố lòng tin của nhân dân đối với đường lối lãnh đạo của Đảng, Nhà nước nói chung, chính sách của địa phương nói riêng.
File đính kèm:
- vai_tro_cua_kiem_toan_nha_nuoc_trong_kiem_toan_thu_ngan_sach.pdf