Tư tưởng triết học của Nguyễn An Ninh

Nguyễn An Ninh là nhà trí thức yêu nước tiêu biểu vào những năm đầu của thế kỉ XX. Trong

quá trình hoạt động, ông đã để lại nhiều dấu ấn cho cách mạng Việt Nam nói chung và tư tưởng triết học

Việt Nam nói riêng. Với tư cách là nhà triết học, Nguyễn An Ninh đã vận dụng chủ nghĩa duy vật Mác -

Lênin vào thực tiễn Việt Nam một cách sáng tạo. Trong các tác phẩm của mình, Nguyễn An Ninh đã thể

hiện một cách xuất sắc tư tưởng triết học về thế giới quan, phương pháp luận và nhận thức luận. Tư

tưởng triết học của Nguyễn An Ninh đã góp phần làm phong phú thêm hệ thống tư tưởng triết học Việt

Nam cả trong quá khứ và hiện tại. Với sự nghiên cứu trên, chúng tôi thấy rằng Nguyễn An Ninh đã xác

lập được cho mình thế giới quan khoa học và phương pháp luận đúng đắn trên chủ nghĩa duy vật biện

chứng. Tư tưởng triết học của Nguyễn An Ninh chứa đựng tính nhân văn sâu sắc.

Tư tưởng triết học của Nguyễn An Ninh trang 1

Trang 1

Tư tưởng triết học của Nguyễn An Ninh trang 2

Trang 2

Tư tưởng triết học của Nguyễn An Ninh trang 3

Trang 3

Tư tưởng triết học của Nguyễn An Ninh trang 4

Trang 4

Tư tưởng triết học của Nguyễn An Ninh trang 5

Trang 5

pdf 5 trang xuanhieu 1720
Bạn đang xem tài liệu "Tư tưởng triết học của Nguyễn An Ninh", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Tư tưởng triết học của Nguyễn An Ninh

Tư tưởng triết học của Nguyễn An Ninh
iệt Nam một cách phù hợp. 
2.2. Nội dung cơ bản tư tưởng triết học của 
Nguyễn An Ninh 
Có thể khẳng định rằng, Nguyễn An Ninh là một 
trong những nhà tư tưởng triết học tiêu biểu của Việt 
Nam trong những năm đầu thế kỉ XX. Tuy ông không 
có tác phẩm nào dành riêng cho triết học nhưng quan 
điểm về thế giới quan, phương pháp luận, nhận thức 
luận của ông vẫn được thể hiện trong các tác phẩm và 
các bài viết. 
Quan điểm về thế giới quan trong tư tưởng triết học 
của Nguyễn An Ninh. Đứng trên quan điểm của chủ 
nghĩa duy vật biện chứng mà trực tiếp là chủ nghĩa duy 
vật Mác - Lênin, Nguyễn An Ninh cho rằng “Cả vũ trụ 
là vật chất, vật chất biến động mãi mãi. Không có sự 
chuyển động nào là không có vật chất, mà cũng không có 
vật chất nào là không chuyển động” [1, tr.933]. Cũng như 
các nhà triết học duy vật biện chứng khác, Nguyễn An 
Ninh thừa nhận thế giới này là thế giới vật chất. Bản chất 
của thế giới là vật chất nên các sự vật, hiện tượng tồn tại 
trên thế giới đều là vật chất. Vật chất tồn tại thông qua sự 
vận động, do vận động là một thuộc tính cố hữu của vật 
chất nên vật chất không sinh ra cũng không mất đi. “Biết 
vật, tất nhiên là vì vật nhờ ngũ quan mà tác động đến ta”, 
nên khoa học càng phát triển con người càng nhận thức 
đầy đủ hơn về thế giới vật chất, “vì vậy hình thức của duy 
vật thuyết phải thay đổi mỗi khi có sự phát minh mới mẻ 
trong khoa học tự nhiên (sciences naturelles)” [1, tr.933]. 
Đứng trên quan điểm duy vật biện chứ để giải thích về 
thế giới nên ông đã cho rằng, sự khủng hoảng về tinh 
thần trên thế giới đều được bắt nguồn từ sự khủng hoảng 
của kinh tế. Bởi “kinh tế là gốc. Luân lí, phong tục, tôn 
giáo, mĩ thuật, chính trị, toàn cả xã hội chẳng qua như là 
cái bóng của kinh tế của xã hội thôi, kinh tế của xã hội 
đổi thì cả đều đổi theo” [1, tr.881]. Ông cũng cho rằng, 
sự ra đời của tôn giáo tuy bắt nguồn từ nhiều nguyên 
nhân nhưng tôn giáo cũng gắn liền với kinh tế. Bằng 
những luận điểm thuyết phục ở trên, Nguyễn An Ninh 
đã chứng minh rằng, thế giới này là thế giới vật chất, 
còn thế giới thần linh là do con người bất lực trước thực 
tại và tự nhiên. “Ngày nay, các nhà nghiên cứu lịch sử 
đã thấy rõ rằng trong nhơn loại, từ xưa đến nay hễ cái 
nền kinh tế của xã hội đổi, thì những tư tưởng, phong 
tục, pháp luật của xã hội ấy cũng đổi theo. Hiện thời, 
toàn thế giới mắc phải kinh tế khủng hoảng, làm cho 
chính trị, tôn giáo, luân lí phong tục, thảy thảy đều bị 
khủng hoảng theo” [1, tr.1018]. Bằng việc khái quát 
lịch sử nhân loại, Nguyễn An Ninh đã đứng trên quan 
điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng khi cho rằng 
văn hoá, triết học, pháp luật, thuộc kiến trúc 
thượng tầng. Do vậy, khi cơ sở hạ tầng thay đổi thì 
kiến trúc thượng tầng cũng thay đổi theo. “Tư tưởng 
của triết nhơn nhờ hoàn cảnh mà sanh ra. Cho nên 
như ông Khổng ngày nay sống lại ở Tàu, thì người trí 
tuệ xuất chúng như ông ta có lẽ cũng ngã theo bọn 
Võ Văn Dũng 
38 
thanh niên Tàu ở Thượng Hải mà đánh đổ Khổng 
giáo” [1, tr.1033]. Trong các tác phẩm Tôn giáo và 
Phê bình Phật giáo, ông đã nhấn mạnh “Con người làm 
ra tôn giáo, không phải tôn giáo làm ra con người 
Tôn giáo là giọng than thở của con người bị sự khốn 
khổ đè ép. Nó là linh hồn của một thế giới không biết 
thảm thương. Nó cũng là tinh thần của một thời kì ngu 
muội. Nó là thuốc phiện của dân” [1, tr.918]. Từ việc 
phê bình tôn giáo, Nguyễn An Ninh đã kêu gọi tầng 
lớp thanh niên Việt Nam đứng lên đấu tranh để giải 
phóng cho bản thân và cho dân tộc ở thực tại trần gian. 
“Con người tư tưởng là một sự tự nhiên, như sự thở, sự 
thấy, sự nghe, như các sự cần dùng của xác thịt, vì vậy 
cho nên tư tưởng luôn luôn do nơi hoàn cảnh mà sanh 
ra” [1, tr.1251]. Những vấn đề mà nhân loại chưa giải 
đáp được là do khoa học còn hạn chế, ông viết “Khoa 
học cố tìm ra cái lí ấy để biết được quy luật tự nhiên của 
ngành kinh tế. Tìm ra quy luật tất yếu, tìm hiểu để biết 
tận tường, ấy là khoa học” [1, tr.964]. 
Nguyễn An Ninh cho rằng, con người phương 
Đông nói chung và Việt Nam nói riêng hay dùng từ 
“trời” để nói về thế giới là vì “Trong các tục thờ sóng 
gió, thờ mặt trời, mặt trăng, thờ sao, thờ cây to, đá lớn, 
con người lại nghe như mình được trực tiếp, được điều 
hòa với các tạo vật trong vũ trụ, hiệp làm một với cả vũ 
trụ. Cái tục thờ cúng đó, nó trúng với cái sự hiểu vũ trụ 
của thiên hạ, vừa với một cái trình độ kia, lộ ra cho mình 
ngó thấy trong cái tục dở đó tuy vậy chớ có một điều hay 
là: nhơn loại có ráng mà hiểu cả tạo vật” [1, tr.887]. Như 
vậy, trời được hiểu như đấng tối cao, tồn tại bên ngoài 
vũ trụ, sinh ra vạn vật, là căn nguyên chung của vạn 
vật. Tuy nhiên, giai cấp cầm quyền đã lợi dụng vào đó 
để thần thánh hoá mọi sự vật hiện tượng để phục vụ 
cho lợi ích của chúng. “Giai cấp thống trị lợi dụng sự 
tin tưởng, thiếu hiểu biết của người dân mà càng đưa 
họ vào vòng nô lệ, tin vào một thế lực đó là trời, tin số 
mệnh là do trời” [1, tr.789]. Đứng trên quan điểm duy 
vật biện chứng khi quan niệm về thế giới nên Nguyễn 
An Ninh đã cho rằng, thế giới này là thế giới vật chất, 
vật chất tồn tại trong quá trình vận động và biến đổi và 
phát triển. 
Quan điểm về phương pháp trong tư tưởng triết học 
của Nguyễn An Ninh. Trong hầu hết các tác phẩm của ông đều 
bộc lộ phương pháp của phép duy vật biện chứng và phê phán 
học thuyết của Nietzsche về “trời đất xoay đi trở lại vô 
cùng” [1, tr.929] “vạn vật vận động, tuần hoàn nhưng 
vận động đó là vận động vòng tròn, tuy cũng có động 
nhưng thực chất là vô biến hóa, là chết” [1, tr.1005]. 
Nguyễn An Ninh đã cho rằng, quan niệm của Nietzsche 
tuy nói về sự vận động nhưng sự vận động đó diễn ra 
theo một vòng tròn khép kín chứ không phải là hình 
thức vận động phát triển như quan điểm của chủ nghĩa 
duy vật biện chứng. Khi nghiên cứu về Phật giáo, ông 
cũng cho rằng, “Đạo Phật nhìn vạn vật biến đổi mãi, 
không bao giờ ngừng, không bao giờ tịnh. Biến đổi 
không ngớt, vô cùng, đi ngay một đường thẳng không 
trở lại” [1, tr.992]. Từ đó, Nguyễn An Ninh cũng chỉ ra 
rằng, tuy Phật giáo đã nhận thức được mâu thuẫn nằm 
ngay trong bản thân của mỗi sự vật nhưng chưa thấy 
mâu thuẫn là nguồn gốc, động lực cho sự tồn tại và phát 
triển của sự vật. Tuy nhiên, ông cũng nhấn mạnh 
“Trong thời đại của Phật, mà Phật thấy được vạn vật 
biến thiên thì cũng đã hơn các phái khác rồi” [1, tr.930]. 
Ông cho rằng, trong tư tưởng biện chứng của Phật giáo 
và tư tưởng biện chứng duy vật có những điểm phù 
hợp, “Như thế duy vật biện chứng pháp cũng nhận vạn 
vật biến đổi mãi, song phái duy vật cho vạn vật không 
phải do một lực lượng bên ngoài nó hay một nguyên lí 
nào buộc nó biến động. Các sự vật trong vũ trụ, vì mâu 
thuẫn bên trong mà tự sanh tự biến mãi mãi, đưa tới 
mãi mãi” [1, tr.931]. Ông nhấn mạnh, mâu thuẫn trong 
tư tưởng biện chứng của Phật giáo là dùng để giải 
thích hiện tượng chứ không đi sâu nghiên cứu về bản 
chất “Cho nên phái duy vật biện chứng, không cho sự 
mâu thuẫn là một sự rủi, một điều khổ, mà trái lại cho 
nó là một điều cần yếu giúp cho con người có hi vọng 
về sau” [1, tr.931]. Nguyễn An Ninh cho rằng, mỗi sự 
vật, hiện tượng trong thế giới đều chứa đựng mâu thuẫn, 
chúng phát triển và được giải quyết, phá vỡ sự thống nhất 
để vươn tới trình độ cao hơn “Lênin so sánh sự tiến hóa 
của vũ trụ như cái khu ốc xây tròn nhưng tiến lên mãi 
không bao giờ trở lại chỗ cũ” [1, tr.931]. Ông đã sử dụng 
phương pháp luận duy vật biện chứng khi luận giải 
những vấn đề triết học, chính trị, tôn giáo, văn hóa, 
Vấn đề nhận thức luận trong tư tưởng triết học của 
Nguyễn An Ninh. Đứng trên quan điểm thế giới quan và 
phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng, 
Nguyễn An Ninh đã cho rằng, con người có khả năng 
nhận thức được thế giới. “Biết vật, tất nhiên là vì vật nhờ 
ngũ quan mà tác động đến ta” [1, tr.931]. Và “khoa học 
thật lần lần đuổi sự dị đoan đi. Nhưng mà học hiểu không 
phải là đủ, trong tâm còn lo sợ thì là còn nền gốc cho sự 
 ISSN 1859 - 4603 - Tạp chí Khoa học Xã hội, Nhân văn & Giáo dục, Tập 8, số 2 (2018), 36-40 
 39 
dị đoan” [1, tr.886]. “Sự thật nó biến hóa vô cùng, mình 
không thể nhứt định cho nó là sao, chỉ mong hiểu sự tiến 
hóa của nó mà theo nó cho kịp, đó là giỏi” [1, tr.1213]. 
Trong quá trình nhận thức, Nguyễn An Ninh rất đề cao 
nhận thức lí tính, “biết mình, biết người, biết tâm lí của các 
hạng người trong xã hội, biết cái đang tiến hóa của nhân 
loại, không có điều nào là dễ hết. Tâm lí học, xã hội học, 
kinh tế học là ba cái môn mình cần lão luyện để hiểu đời 
này và để sống với nó, mà nó lại là ba cái nhánh mới mọc 
của cây khoa học. Vì vậy mà mình phải nhìn nhận biết là 
khó” [1, tr.1212]. Tuy nhiên, nhận thức khoa học lại vô 
cùng quan trọng bởi “tìm cho ra cái quy luật tất yếu, tìm 
hiểu để biết tận tường, ấy là khoa học” [1, tr.964]. Mặc dù 
nhận thức về khoa học của Nguyễn An Ninh chưa thực 
sự đầy đủ nhưng ông là một trong những người có công 
đóng góp để chuyển tư duy thần thánh sang khoa học ở 
Việt Nam. Nguyễn An Ninh nhấn mạnh, “chẳng phải Á 
Đông ta từ xưa đến nay không biết chút gì là khoa học. 
Nhưng khoa học bên Á Đông từ xưa đã có trong xã hội, 
trôi theo một dòng với vận mệnh xã hội. Nên khoa học 
bên Á Đông không tách ra thành một ngành riêng biệt 
trong xã hội như bên Âu Tây” [1, tr.968]. Trong khi đó 
ở các nước phương Tây khoa học đã được tách ra thành 
một ngành độc lập để nghiên cứu tự nhiên, xã hội và tư 
duy. Nhận thấy tầm quan trọng của tri thức khoa học 
nên ông cho rằng, việc cần thiết phải cử người qua các 
nước khác để học và tiếp cận tri thức mới. Ông nhận 
định, trong tương lai, khoa học sẽ có bước phát triển đột 
biến, đạt đến trình độ cao mà con người cũng khó hình 
dung được. Tuy nhiên, sự phát triển khoa học cần phải 
kết hợp với sự phát triển của xã hội. 
2.3. Đánh giá tư tưởng triết học của Nguyễn An Ninh 
Nguyễn An Ninh đã xác lập được cho mình thế giới 
quan khoa học và phương pháp luận đúng đắn trên chủ 
nghĩa duy vật biện chứng. Đây chính là cơ cở cho 
Nguyễn An Ninh luận giải những vấn đề chính trị, tôn 
giáo, văn hóa, Trong hoạt động thực tiễn, ông luôn 
tuân theo nguyên tắc thống nhất giữa lí luận với thực 
tiễn Việt Nam. Nguyễn An Ninh là một trong những trí 
thức tiêu biểu vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin một cách 
sáng tạo, phù hợp với thực tiễn cách mạng Việt Nam. 
Tư tưởng triết học của Nguyễn An Ninh tuy nằm rải rác 
trong các tác phẩm nhưng mang tính thực tiễn cao. 
Chính vì thế tư tưởng triết học của ông đã thâm nhập 
sâu rộng vào quần chúng nhân dân Việt Nam. Việc sử 
dụng phương pháp diễn thuyết để kêu gọi thanh niên 
sống có lí tưởng, hoài bão là một phương pháp mới và 
là lần đầu tiên được sử dụng tại Việt Nam. 
Tư tưởng triết học của Nguyễn An Ninh mang tính 
nhân văn sâu sắc. Trong hầu hết các tác phẩm, bài viết 
của ông luôn đề cao vai trò, vị trí và giá trị của con 
người. Con người ở đây là con người cụ thể, chính là 
những người dân Việt Nam đang chịu cảnh đoạ đày cần 
được giải phóng. Trong hệ thống tư tưởng của mình, 
Nguyễn An Ninh luôn đề cao quyền tự do và dân chủ 
của con người, đồng thời khẳng định nhân dân lao động 
là chủ thật sự của đất nước Việt Nam. Sự tồn vong của 
một đất nước là do nhân dân quyết định. Việc quan 
trọng nhất lúc bấy giờ là tìm ra con đường giải phóng 
dân tộc, xây dựng một đất nước Việt Nam phát triển, 
hùng cường. Tư tưởng triết học của Nguyễn An Ninh 
không chỉ đáp ứng nhu cầu của lịch sử mà còn có giá trị 
to lớn trong quá trình xây dựng và phát triển ở Việt 
Nam hiện nay. 
Tư tưởng triết học của Nguyễn An Ninh mang tính 
kế thừa, vận dụng và phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin 
một cách linh hoạt. Ông không chỉ là người am hiểu 
những tư tưởng cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin mà 
còn vận dụng một cách linh hoạt trong quá trình hoạt 
động cách mạng. Kế thừa của chủ nghĩa Mác-Lênin, 
ông đã xác lập cho mình thế giới quan khoa học và 
phương pháp luận đúng đắn, đó là thế giới quan duy vật 
biện chứng và phương pháp biện chứng duy vật. Đây là 
vốn tri thức quan trọng, làm cơ cở cho Nguyễn An Ninh 
luận giải những vấn đề chính trị, tôn giáo, văn hóa - xã 
hội. Trong nhận thức và hoạt động thực tiễn ông luôn 
tuân theo nguyên tắc thống nhất giữa lí luận với thực 
tiễn với tinh thần cách mạng không ngừng. Chẳng hạn 
như vấn đề xem xét bước đi trong quá trình cách mạng, 
khẩn trương nhưng không có thái độ nôn nóng, đốt cháy 
giai đoạn, chọn phương pháp đấu tranh phù hợp để bảo 
toàn lực lượng mà có hiệu quả thiết thực, tránh được 
đàn áp của thực dân, quan điểm giai cấp, vấn đề tập 
hợp lực lượng. Ông sử dụng phương pháp diễn thuyết 
kêu gọi thanh niên sống có lí tưởng, bài diễn thuyết 
“Lí tưởng của thanh niên An Nam” đã tạo được ảnh 
hưởng lớn đối với thanh niên Nam Bộ nói chung và trí 
thức nói riêng. 
3. Thay lời kết 
Võ Văn Dũng 
40 
Trên cơ sở kết thừa và vận dụng triết học Mác - 
Lênin vào điều kiện lịch sử Việt Nam, Nguyễn An Ninh 
đã khẳng định rằng, thế giới này là thế giới vật chất. 
Đứng trên quan điểm duy vật biện chứng, Nguyễn An 
Ninh giải thích các hiện tượng trong tự nhiên và xã hội 
hết sức thuyết phục. Nguyễn An Ninh cũng tiến hành 
khảo cứu các hình thức khác nhau của phép biện chứng 
trong lịch sử qua các đại diện tiêu biểu và thấy rằng, 
phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin là phương 
pháp toàn diện nhất. Trên cơ sở đó, Nguyễn An Ninh 
cũng khẳng định, con người có thể nhận thức được thế 
giới. Quá trình nhận thức của con người là một quá trình 
tự nhiên, trải qua nhiều giai đoạn. Tư tưởng triết học 
của Nguyễn An Ninh là sự kế thừa và vận dụng sáng tạo 
chủ nghĩa Mác - Lênin vào thực tiễn cách mạng Việt 
Nam trong những năm đầu thế kỉ XX và đến nay vẫn 
còn nguyên giá trị. 
Tài liệu tham khảo 
[1] Mai Quốc Liên, Nguyễn Sơn (2012). Nguyễn An 
Ninh - tác phẩm. NXB Văn học. 
[2] Lê Minh Quốc (1997). Nguyễn An Ninh dấu ấn để 
lại. NXB Văn học. 
THOUGHT OF NGUYEN AN NINH PHILOSOPHY 
Abstract: Nguyen An Ninh is one of the typical patriotic intellectuals in the early years of the twentieth century. During his life, he 
has left his mark in Vietnam revolutionary in the general and Vietnam philosophical thought in particular. As a philosopher, Nguyen An 
Ninh has applied Marxism - Leninism into Vietnam in a creative way. In his writings, Nguyen An Ninh has shown a remarkably 
philosophical thought about the outlook, methodology, and epistemology. The philosophical thought of Nguyen An Ninh has 
contributed to enrich the philosophical system of the thought system in Vietnam both in past and present. With this research, we 
found that Nguyen An Ninh has determined for himself the correct scientific outlook and methodology based on the dialectical 
materialism. The Nguyen An Ninh philosophical thought contains the deep humanism. 
Key words: ideology; intellectuals; philosopher; Nguyen An Ninh. 

File đính kèm:

  • pdftu_tuong_triet_hoc_cua_nguyen_an_ninh.pdf