Tội phạm có tổ chức và phương hướng hoàn thiện pháp luật hình sự ở Việt Nam
Tội phạm có tổ chức được xem là một hiện tượng xã hội tiêu cực hình thành khá sớm
trên thế giới và ở Việt Nam với nhiều hình thức khác nhau và diễn biến ngày càng phức
tạp, khó lường. Trên cơ sở nghiên cứu, bài viết tập trung làm rõ một số vấn đề về khái
niệm, đặc trưng, các mối quan hệ cơ bản của tội phạm có tổ chức, từ đó đề xuất phương
hướng góp phần hoàn thiện pháp luật hình sự ở Việt Nam trong thời gian tới.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Bạn đang xem tài liệu "Tội phạm có tổ chức và phương hướng hoàn thiện pháp luật hình sự ở Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Tội phạm có tổ chức và phương hướng hoàn thiện pháp luật hình sự ở Việt Nam
ập hợp các hành vi liên kết có tổ chức của ít nhất hai người trở lên trong một thời gian nhất định. Tính ổn định trong một thời gian dài của các hành vi liên kết, có tổ chức thể hiện mối liên hệ và phản ánh tính chuyên nghiệp của tội phạm. Tính chuyên nghiệp càng cao thì tính tổ chức của nó càng rõ nét. PHẠM CÔNG TÙNG 9Số Chuyên đề 01 - 2021 Khoa học Kiểm sát Các dạng liên kết có tổ chức ngoài phương diện liên kết giữa các thành viên trong các nhóm tội phạm, tổ chức tội phạm còn thể hiện ở liên kết giữa các nhóm, tổ chức tội phạm với nhau. Mỗi dạng nhóm tội phạm, tổ chức tội phạm thì tính chất liên kết lại thể hiện những đặc điểm khác nhau về quy mô, cấu trúc. Hành động khuôn mẫu hóa: Các cá nhân khi tham gia vào tổ chức tội phạm đều phải vận hành dựa trên khuôn mẫu, các quy tắc của tổ chức. Các quy tắc, khuôn mẫu này có tính ổn định theo thời gian và được lặp đi lặp lại có tác dụng chuẩn hóa hoạt động và các mối quan hệ giữa các thành viên mà không phụ thuộc vào các yếu tố mang tính chất cá nhân. Cấu trúc thang bậc quyền lực: Bất kỳ nhóm, tổ chức tội phạm nào cũng phân cấp theo thang quyền lực gắn với những vị trí nhất định. Cách thức này giúp cho các thành viên trong tổ chức thấy được vị trí, vai trò, giới hạn của mình. Ngoài ra, cấu trúc thang bậc quyền lực của các tổ chức tội phạm có thể được xây dựng thành quy tắc, nội quy công khai hoặc có thể được công nhận một cách tự nhiên, quy ước không chính thức thông qua “quyền lực ngầm”. Hoạt động phạm tội phổ biến: Tội phạm có tổ chức có thể thực hiện các hoạt động bất hợp pháp hay đạt được các mục tiêu hợp pháp bằng các biện pháp phi pháp. Các biện pháp được sử dụng có thể là những phương thức tinh vi, khó nhận biết đến những biện pháp thô bạo, trực tiếp, công khai nhằm thiết lập sự độc quyền từng phần hay toàn phần trong việc cung cấp hàng hóa và dịch vụ bất hợp pháp cho người tiêu dùng vì hoạt động này mang lại cho chúng lợi nhuận kinh tế cao. Dịch vụ bất hợp pháp là những dịch vụ mà kinh doanh hợp pháp không cung cấp và bị pháp luật cấm. Những dịch vụ này phổ biến gồm: Hoạt động cờ bạc dưới bất kỳ hình thức nào được tiến hành ngoài vòng pháp luật; bảo kê (hình thức tống tiền mà theo đó các thành viên tổ chức tội phạm tiếp cận chủ sở hữu của các doanh nghiệp nhỏ và đề nghị cung cấp cho họ sự bảo vệ trong các trường hợp thiệt hại do yếu tố khách quan mang lại); cho vay lãi nặng; kinh doanh mại dâm, buôn bán người Cung cấp hàng hóa bất hợp pháp là hoạt động cung cấp các sản phẩm cụ thể mà một bộ phận công chúng mong muốn, nhưng không thể có được một cách hợp pháp. Do nhu cầu này, các nhóm tội phạm có tổ chức hình thành và phát triển đi kèm theo các vấn đề như buôn bán bất hợp pháp các sản phẩm văn hóa, y tế, vũ khí, phần mềm, ma túy. Ngoài ra, tội phạm có tổ chức không chỉ dừng lại ở việc thực hiện các hoạt động hay cung cấp các dịch vụ phi pháp mà sử dụng phương thức, thủ đoạn tinh vi như “rửa tiền” thông qua các cấu trúc kinh tế hợp pháp và phương thức thanh toán điện tử. Trên thực tế, có nhiều tập đoàn tội phạm đang thâm nhập sâu vào các hoạt động hợp pháp để thu lại lợi nhuận về kinh tế. Lý do là các thành viên của tổ chức tội phạm muốn hợp pháp hóa những lợi nhuận bất hợp pháp thu được, tạo vỏ bọc hợp pháp trong cộng đồng để tránh sự nghi ngờ của người dân và sự phát hiện của các cơ quan có thẩm quyền. Hoạt động này biểu hiện rất đa dạng và ngày càng phát triển. Hiện nay, nhu cầu về hàng hóa và dịch vụ bất hợp pháp rất lớn đã khiến tội phạm có tổ chức tìm kiếm các cơ hội để xuất hiện dưới dạng các doanh nghiệp hợp pháp nhằm khai thác những thị trường bất hợp pháp này. Mục đích vụ lợi và các biểu hiện vụ lợi của tội phạm có tổ chức: Tội phạm có tổ chức là một hệ thống các mối liên hệ và quan hệ trong xã hội được hình thành thông qua việc khai thác, tìm kiếm lợi nhuận phi pháp với các hoạt động tội phạm cụ thể, thể hiện mối liên hệ phức tạp và ngày càng trở nên đa dạng hơn nhằm khai thác lợi nhuận. Tội phạm có tổ chức cần và thực tế đã sử dụng sức mạnh kinh tế và chính trị để đạt được mục tiêu lợi nhuận kinh tế. Hiện nay, việc sử dụng các phương thức phạm tội để đạt được mục tiêu lợi nhuận vẫn là thuộc tính quan trọng, là căn cứ để đưa ra định nghĩa về tội phạm có tổ chức. Đến nay, xét về bản chất , tội phạm có tổ chức vẫn xác định vấn đề kinh tế là trọng tâm của sự hình thành và thành công của các nhóm này, coi đây là động lực của hoạt động phạm tội có tổ chức, là vấn đề cốt lõi của các mối quan hệ kinh tế, là trung tâm điều chỉnh các mối quan hệ cá nhân hay thứ bậc hoặc văn hóa khác trong tổ chức tội phạm có tổ chức. Xu hướng xuyên quốc gia: Tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia thực tế chỉ là một bộ phận của tình hình tội phạm có tổ chức nói chung. Dấu hiệu xuyên quốc gia như là một dấu hiệu riêng biệt, đặc trưng của tội phạm có tổ chức. Xu hướng liên kết các địa bàn, khu vực và cấu kết toàn cầu giữa các nhóm tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia ngày càng mạnh mẽ. Hiện tượng này xuất hiện trong hoàn cảnh yêu cầu kiểm soát các ranh giới hành chính địa phương và đường biên giới quốc gia giảm đi, sự giao TỘI PHẠM CÓ TỔ CHỨC VÀ PHƯƠNG HƯỚNG... 10 Khoa học Kiểm sát Số Chuyên đề 01 - 2021 lưu về mọi mặt của đời sống chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội được mở rộng. Tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia có những đặc trưng cơ bản như: Thành lập nhiều mạng lưới chân rết ở nước ngoài để điều hành các hoạt động của tổ chức; quan hệ móc nối, chặt chẽ với chính quyền và chính khách nhiều quốc gia; liên kết chiến lược xuyên quốc gia nhằm mở rộng phạm vi, lĩnh vực hoạt động; tăng cường hỗ trợ lẫn nhau trong hoạt động phạm tội; che giấu dấu vết, tài sản, người phạm tội Yếu tố xuyên quốc gia của tội phạm có tổ chức được xác định khi: (i) Nó được thực hiện ở nhiều quốc gia; (ii) Nó được thực hiện tại một quốc gia nhưng một phần chủ yếu của việc chuẩn bị, lập kế hoạch, chỉ đạo hoặc điều khiển diễn ra ở một quốc gia khác; (iii) Nó được thực hiện tại một quốc gia nhưng liên quan đến một nhóm tội phạm có tổ chức tham gia vào các hoạt động tội phạm tại nhiều quốc gia; hoặc là (iv) Nó được thực hiện tại một quốc gia nhưng có ảnh hưởng lớn ở một quốc gia khác.13 2.2. Các mối quan hệ cơ bản của tội phạm có tổ chức Tội phạm có tổ chức với tội phạm có tính chất chuyên nghiệp: Tính chuyên nghiệp và tính có tổ chức có mối quan hệ với nhau nhưng không đồng nhất, nó là những dạng tội phạm độc lập. Tội phạm có tổ chức phức tạp hơn, liên quan đến hoạt động của những bộ phận tội phạm được tổ chức chứ không phải những cá nhân riêng biệt. Tội phạm có tổ chức có sự ổn định và quy mô lớn hơn, có sự khác biệt về kết cấu tổ chức, thành phần tham gia Tội phạm có tổ chức là một khái niệm pháp lý - xã hội, là một hiện tượng xã hội phức tạp. Còn tội phạm có tính chất chuyên nghiệp là một hiện tượng pháp lý - hình sự đơn thuần, không có thuộc tính xã hội. Tội phạm có tổ chức với tội phạm có sử dụng bạo lực: Tội phạm có tổ chức cũng có dấu hiệu sử dụng bạo lực. Tuy nhiên, dấu hiệu “sử dụng bạo lực” trong tội phạm có tổ chức khác so với các tội phạm thông thường khác có sử dụng bạo lực là về quy mô, mục đích. Tội phạm có tổ chức với vấn đề khủng bố: Dựa vào hoạt động phạm tội và những biểu hiện về mục đích phạm tội của tội phạm có tổ chức và khủng bố có thể thấy, chúng có mối quan hệ tác động qua lại với nhau ở các mức độ nhất định, các nhóm này có thể tiến lên, lùi lại hoặc bỏ 13 Xem: Điều 3 Công ước về chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia. qua các bước hoặc duy trì một hình thức tương tác nhất định14. Song khủng bố chỉ là một dạng biểu hiện của hành vi tội phạm “có tổ chức”, nó khác biệt với tội phạm có tổ chức. Khủng bố liên quan đến các tội ác được thực hiện với mục tiêu đe dọa người dân hoặc ép buộc chính phủ hoặc tổ chức quốc tế nhằm đạt được các mục tiêu chính trị hoặc xã hội, trong khi tội phạm có tổ chức luôn tìm cách đạt được lợi ích tài chính hoặc vật chất khác15. Ngoài ra, tội phạm có tổ chức để thực hiện tội phạm đòi hỏi “một nhóm người có tổ chức” trong khi khủng bố thì có thể do các cá nhân thực hiện.16 Tội phạm có tổ chức với tệ nạn tham nhũng, hối lộ: Sự hình thành và phát triển tất yếu của tội phạm có tổ chức gắn với tệ nạn tham nhũng, hối lộ. Bởi lẽ, tội phạm có tổ chức luôn hướng tác động đến những người có vị trí, quyền lực trong các cơ quan nhà nước để tạo ra những điều kiện thuận lợi cho hoạt động phạm tội của mình, đồng thời tạo ra nhiều cơ hội làm ăn hơn, che giấu tài sản, trốn tránh pháp luật. 3. Phương hướng hoàn thiện pháp luật hình sự ở Việt Nam Hiện nay, tăng cường phòng, chống tội phạm có tổ chức bằng pháp luật hình sự được coi là một trong những giải pháp nền tảng, quan trọng. Xu hướng này bắt đầu ở Italia từ những năm 1930 và phát triển ở Châu Âu và thế giới từ năm 2000 - thời điểm ra đời Công ước của Liên hợp quốc về chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia17. Tăng cường phòng, chống tội phạm có tổ chức bằng pháp luật hình sự thể hiện trước hết ở việc các quốc gia thực hiện việc hình sự hóa các hành vi thành lập hoặc tham gia tổ chức tội 14 Xem: Shelley (2005). 15 Xem : Định nghĩa về Tội phạm có tổ chức trong Công ước của Liên hợp quốc về phòng, chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia chỉ bao gồm các nhóm mà thông qua hoạt động của họ (trực tiếp hoặc gián tiếp) để thu “lợi ích tài chính hoặc vật chất khác”. 16 Xem: Nghị quyết 55/25 của Đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua Công ước chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia cũng kêu gọi các quốc gia thừa nhận mối liên hệ giữa các hoạt động tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia và các hoạt động khủng bố. 17 Hiện nay đã có trên 160 quốc gia và tổ chức quốc tế phê chuẩn Công ước, trong đó Việt Nam đã ký Công ước vào tháng 12 năm 2000 và phê chuẩn Công ước vào tháng 6 năm 2012. Công ước có hiệu lực đối với Việt Nam từ ngày 08/6/2012. PHẠM CÔNG TÙNG 11Số Chuyên đề 01 - 2021 Khoa học Kiểm sát phạm theo yêu cầu tại Điều 5 của Công ước. Yêu cầu này được đặt ra xuất phát từ chính sự nguy hiểm của tổ chức tội phạm, nghĩa là nó không chỉ nguy hiểm khi thể hiện bằng các hoạt động phạm tội trong các loại tội phạm cụ thể mà thể hiện ngay từ hành vi thành lập hoặc tham gia một tổ chức tội phạm vì nguy cơ thực hiện tội phạm nằm trong chính mục đích của tổ chức18. Nhiều quốc gia trên thế giới đã thừa nhận khái niệm tổ chức tội phạm và quy định hành vi thành lập hoặc tham gia tổ chức tội phạm là tội phạm nhưng theo các cách khác nhau. Một số ít các quốc gia quy định khái niệm tổ chức tội phạm trong phần chung và quy định tội thành lập hoặc tham gia tổ chức tội phạm trong phần riêng19. Nhiều quốc gia khác lại quy định thẳng tội danh liên quan đến hành vi thành lập hoặc tham gia tổ chức tội phạm trong phần riêng của Bộ luật hình sự20. Tăng cường đấu tranh chống tội phạm có tổ chức bằng pháp luật hình sự còn được thể hiện qua việc quy định tội phạm có tổ chức là một tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự21. Thực tế, Bộ luật hình sự Việt Nam mới chỉ đề cập đến tội Hoạt động thành lập hoặc tham gia tổ chức nhằm lật đổ chính quyền nhân dân (Điều 109) và quy định việc thành lập hoặc tham gia nhóm tội phạm theo quy định tại Điều 14 về chuẩn bị phạm tội. Ngoài ra, tình tiết “có tổ chức” mới chỉ được xác định là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự hoặc tăng nặng trách nhiệm hình sự định khung trong một số điều luật cụ thể. Việc bổ sung nhóm hành vi “thành lập, tham gia nhóm tội phạm” vào quy định về chuẩn bị phạm tội (Điều 14) được đánh giá là không phù hợp với lý luận về các giai đoạn thực hiện tội phạm cũng như quan niệm chung về chuẩn bị phạm tội và không đạt được mục đích nội luật hóa điều ước trong Công ước của Liên hợp quốc về chống tội phạm có tổ chức 18 Xem: Lê Thị Sơn, “Bộ luật hình sự Việt Nam với việc thực thi Công ước của Liên Hợp quốc về chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia”, Luật học Việt Nam, Nxb Tư pháp (2019). 19 Xem: Điều 35, Điều 210 Bộ luật hình sự Liên Bang Nga (bản tiếng Việt), Nxb Công an nhân dân (2011); Điều 26, Điều 294 Bộ luật hình sự Cộng hòa nhân dân Trung Hoa (bản tiếng việt), Nxb Tư pháp (2007). 20 Xem: Điều 129 Bộ luật hình sự Cộng hòa Liên bang Đức; Điều 260 Bộ luật hình sự Thụy Sỹ; Điều 278 và Điều 278a Bộ luật hình sự Cộng hòa Áo; Điều 263 Bộ luật hình sự Hung-ga-ri. 21 Xem: Điều 98 Bộ luật hình sự Hung-ga-ri. xuyên quốc gia mà Việt Nam ký kết, tham gia. Bởi “nhóm tội phạm” ở đây chỉ có thể được hiểu là “nhóm người đồng phạm”22. Mặt khác, các khái niệm trong Bộ luật hình sự Việt Nam về “phạm tội có tổ chức” hay “đồng phạm có tổ chức” hoàn toàn khác biệt với khái niệm tổ chức tội phạm theo tinh thần của Công ước23. Nhằm tạo ra cơ sở pháp lý vững chắc cho hoạt động phòng, chống tội phạm có tổ chức tại Việt Nam, phù hợp với tinh thần của Công ước về chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia mà Việt Nam là thành viên, thời gian tới cần hoàn thiện một số nội dung về pháp luật hình sự như: Một là, cần quy định các điều luật về “tổ chức tội phạm”; nguyên tắc xử lý trách nhiệm hình sự liên quan đến tổ chức tội phạm; hoặc bổ sung tình tiết “người phạm tội là thành viên của tổ chức tội phạm” là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự 24 tại phần chung của Bộ luật hình sự. Luật hình sự Việt Nam cần xác định khái niệm về tổ chức tội phạm, nguyên tắc xử lý tội phạm có tổ chức trên cơ sở đáp ứng các điều kiện, đặc điểm đặc trưng của tội phạm có tổ chức theo Công ước của Liên hợp quốc và phù hợp với thực tiễn tội phạm có tổ chức ở Việt Nam. Hai là, cần bổ sung tội danh “Thành lập hoặc tham gia tổ chức tội phạm” vào chương “Các tội xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng”. Ba là, bổ sung tình tiết “người phạm tội là thành viên của tổ chức tội phạm” là tình tiết định khung hình phạt tăng nặng ở một số tội phạm cụ thể (thường do tổ chức tội phạm thực hiện) và mức tăng nặng của khung hình phạt này phải nặng hơn so với khung hình phạt có tình tiết “phạm tội có tổ chức”./. 22 Xem: Lê Thị Sơn, “Bộ luật hình sự Việt Nam với việc thực thi Công ước của Liên Hợp quốc về chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia, Luật học Việt Nam, Nxb Tư pháp (2019). 23 Phạm tội có tổ chức hay đồng phạm có tổ chức theo Bộ luật hình sự Việt Nam là khái niệm chỉ hình thức phạm tội một tội phạm cụ thể còn khái niệm tổ chức tội phạm được dùng chỉ một nhóm người với những đặc điểm đặc trưng nhất định tại Điều 2 của Công ước. 24 Nếu so sánh phạm tội có tổ chức hay đồng phạm có tổ chức là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự thì tình tiết người phạm tội là thành viên của tổ chức tội phạm phản ánh tính chất nguy hiểm cao hơn.
File đính kèm:
- toi_pham_co_to_chuc_va_phuong_huong_hoan_thien_phap_luat_hin.pdf