Tính tích cực học tập của sinh viên khoa Ngôn ngữ và văn hóa Nhật Bản, trường Đại học Ngoại ngữ, Đại học Huế

Nghiên cứu này nhằm tìm hiểu về tính tích cực học tập của sinh viên khoa Ngôn ngữ và

văn hóa Nhật bản, Trƣờng Đại học Ngoại ngữ, Đại học Huế (ĐHNN, ĐHH). Nội dung

tập trung vào sự khác nhau về tính tích cực giữa sinh viên thi đầu vào bằng tiếng Anh

(khối D1) và sinh viên thi đầu vào bằng tiếng Nhật (khối D6). Kết quả nghiên cứu cho

thấy sinh viên khoa Ngôn ngữ và Văn hóa Nhật Bản phần lớn có tính tích cực trong học

tập, tuy nhiên tính tích cực có sự khác nhau giữa hai khối D1 là sinh viên thi đầu vào

bằng tiếng Anh và khối D6 là sinh viên thi đầu vào bằng tiếng Nhật gây cản trở cho việc

học của sinh viên. Cần phải có phƣơng pháp phù hợp để phát huy, khuyến khích sinh viên

khối D6 và không tạo áp lực cho sinh viên khối D1 là vấn đề cần quan tâm giải quyết.

Tính tích cực học tập của sinh viên khoa Ngôn ngữ và văn hóa Nhật Bản, trường Đại học Ngoại ngữ, Đại học Huế trang 1

Trang 1

Tính tích cực học tập của sinh viên khoa Ngôn ngữ và văn hóa Nhật Bản, trường Đại học Ngoại ngữ, Đại học Huế trang 2

Trang 2

Tính tích cực học tập của sinh viên khoa Ngôn ngữ và văn hóa Nhật Bản, trường Đại học Ngoại ngữ, Đại học Huế trang 3

Trang 3

Tính tích cực học tập của sinh viên khoa Ngôn ngữ và văn hóa Nhật Bản, trường Đại học Ngoại ngữ, Đại học Huế trang 4

Trang 4

Tính tích cực học tập của sinh viên khoa Ngôn ngữ và văn hóa Nhật Bản, trường Đại học Ngoại ngữ, Đại học Huế trang 5

Trang 5

Tính tích cực học tập của sinh viên khoa Ngôn ngữ và văn hóa Nhật Bản, trường Đại học Ngoại ngữ, Đại học Huế trang 6

Trang 6

Tính tích cực học tập của sinh viên khoa Ngôn ngữ và văn hóa Nhật Bản, trường Đại học Ngoại ngữ, Đại học Huế trang 7

Trang 7

Tính tích cực học tập của sinh viên khoa Ngôn ngữ và văn hóa Nhật Bản, trường Đại học Ngoại ngữ, Đại học Huế trang 8

Trang 8

Tính tích cực học tập của sinh viên khoa Ngôn ngữ và văn hóa Nhật Bản, trường Đại học Ngoại ngữ, Đại học Huế trang 9

Trang 9

Tính tích cực học tập của sinh viên khoa Ngôn ngữ và văn hóa Nhật Bản, trường Đại học Ngoại ngữ, Đại học Huế trang 10

Trang 10

Tải về để xem bản đầy đủ

pdf 12 trang xuanhieu 03/01/2022 440
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Tính tích cực học tập của sinh viên khoa Ngôn ngữ và văn hóa Nhật Bản, trường Đại học Ngoại ngữ, Đại học Huế", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Tính tích cực học tập của sinh viên khoa Ngôn ngữ và văn hóa Nhật Bản, trường Đại học Ngoại ngữ, Đại học Huế

Tính tích cực học tập của sinh viên khoa Ngôn ngữ và văn hóa Nhật Bản, trường Đại học Ngoại ngữ, Đại học Huế
 vậy nên tỷ lệ trả lời rất có ích chỉ có 17,5%. 
Biểu đồ 5-1: Tham gia hoạt động nhóm Biểu đồ 5-2: Tính tích cực khi làm nhóm 
 Một số lý do phổ biến giải thích quan điểm cho rằng hoạt động nhóm mất thời gian 
là thành viên nhóm không hợp nhau, mỗi ngƣời một ý kiến không thống nhất đƣợc, bài tập 
quá nhiều, v.v.Thậm chí còn có ý kiến đề xuất rằng nên cho sinh viên làm cá nhân. 
 Biểu đồ 5-2 thể hiện tính tích cực của sinh viên khi làm việc nhóm. Theo biểu đồ, 
có đến 71,4% sinh viên tự đánh giá ở mức độ tích cực. Tuy nhiên con số này cũng nói lên 
rằng tỷ lệ sinh viên chƣa có tính tích cực trong học tập vẫn không nhỏ: 18,3% cho rằng họ bị 
động trong học tập và số còn lại có các câu trả lời khác nhƣ tùy từng môn, tùy vào nhóm mà 
có khi tích cực có khi bị động. 
 Khi đƣợc hỏi ―Ngoài giờ lên lớp, bạn có tham gia các hoạt động nào khác để nâng cao 
năng lực tiếng Nhật của mình không?‖ có 12% sinh viên trả lời không tham gia hoạt động 
nào, còn 88% có tham gia câu lạc bộ nói tiếng Nhật, hoặc tham gia nhóm nào đó.Điều này 
chứng tỏ, đa số sinh viên tự mình tìm tòi học hỏi để nâng cao kiến thức của mình. 
Biểu đồ 5-3: Trao đổi với ngƣời Nhật Bản Biểu đồ 5-4: Khối lƣợng kiến thức trên lớp 
Kỷ yếu điện tử Hội thảo Quốc gia Nghiên cứu liên ngành về Ngôn ngữ và Giảng dạy 
ngôn ngữ lần thứ VI 
 477 
 Biểu đồ 5-3 cho chúng ta thấy sinh viên có cơ hội tiếp xúc trao đổi với ngƣời bản xứ 
còn thấp, chỉ có 22,8% trả lời có, thƣờng xuyên, thỉnh thoảng, trong khi đó gần 77,2% không 
có cơ hội. Biểu đồ 5-4 cho kết quả trả lời cho câu hỏi khối lƣợng kiến thức trên lớp quá nhiều 
và nhiều chiếm đến 67%, thích hợp là 29,8% và ít là 3,2%. Không có ai cho là quá ít. Số trả 
lời là ít và thích hợp chủ yếu rơi vào sinh viên khối D6. Điều này cho thấy những sinh viên đã 
học tiếng Nhật từ bậc phổ thông sẽ thoải mái hơn trong việc tiếp thu lƣợng kiến thức trên lớp 
nên có thời gian hơn cho các hoạt động nhóm. 
 Với kết quả thể hiện qua biểu đồ 5-5 về hoạt động nhóm trên lớp và những khó khăn 
gặp phải, có 52% cho rằng hoạt động nhóm là nhiều và quá nhiều chủ yếu rơi vào sinh viên 
khối D1, 46,4% cho rằng thích hợp. Ở biểu đồ 4-6, với câu trả lời những khó khăn gặp phải 
khi làm nhóm chủ yếu là khó quyết định đƣợc phƣơng án chung, quá nhiều ý kiến trong nhóm 
chiếm 82,7% (tỷ lệ giữa hai khối D1 và D6 không có sự khác biệt lớn), còn lại thì cho rằng 
chƣa đủ kiến thức, khó tìm bạn để làm nhóm, có những bạn không chủ động chỉ ngồi nghe 
không cho ý kiến. 
Biểu đồ 5-5: Hoạt động nhóm trên lớp Biểu đồ 5-6: Khó khăn trong hoạt động nhóm 
 Về câu hỏi sinh viên khoa Ngôn ngữ và Văn hóa Nhật Bản có tích cực trong học tập hay 
không, theo biểu đồ 5-7 có đến 87,3% cho rằng rất tích cực và tích cực, và 22,7% cho rằng 
không tích cực và bị động. Tỷ lệ trả lời rất tích cực và tích cực tăng dần theo các khóa sinh 
viên, cao nhất là sinh viên năm 4 (hơn 42% số trả lời rất tích cực và tích cực), đến năm thứ 3 
(hơn 35% số trả lời rất tích cực và tích cực). Qua kết quả này chứng tỏ sinh viên dần quen với 
các hoạt động nhóm, dần phát huy đƣợc tính tích cực trong học tập và quen với môi trƣờng 
học đại học. 
Biểu đồ 5-7: Tính tích cực của sinh viên Biểu đồ 5-8: Tham gia các hoạt động hỗ trợ cho SV 
khóa sau 
 Biểu đồ 5-8 thể hiện thông tin thu đƣợc từ câu hỏi ―bạn có sẵn sàng tham gia các hoạt 
động hỗ trợ nhƣ làm trợ giảng, học nhóm ngoài giờ... cho sinh viên khóa sau hay không‖ và 
biểu đồ 5-9 thể hiện phản hồi của sinh viên cho câu hỏi về nhu cầu tham gia các câu lạc bộ để 
Kỷ yếu điện tử Hội thảo Quốc gia Nghiên cứu liên ngành về Ngôn ngữ và Giảng dạy 
ngôn ngữ lần thứ VI 
 478 
nâng cao năng lực tiếng Nhật. Kết quả cho thấy sinh viên sẵn sàng và muốn tham gia các hoạt 
động để hỗ trợ cho sinh viên khóa sau và tham gia các câu lạc bộ. Mục đích chung là để nâng 
cao năng lực tiếng Nhật, muốn trau dồi khả năng giao tiếp, muốn ôn lại tiếng Nhật, muốn giúp đỡ 
ngƣời khác, thậm chí là tham gia cho vui. 
Biểu đồ 5-9: Nhu cầu tham gia CLB Biểu đồ 5-10: Áp lực khi học chung với D6 
 Vấn đề đƣợc chúng tôi quan tâm suy nghĩ nhiều nhất đó là sinh viên khối D1 có bị áp 
lực khi học chung với khối D6 hay không. Nhƣ kết quả ở biểu đồ 5-10, và đúng với giả thiết 
đó là có rất nhiều sinh viên cảm thấy bị áp lực, chiếm đến 86,8%. Tâm trạng, trạng thái, tính 
cách của ngƣời học cũng ảnh hƣởng rất lớn đến tính tích cực và quá trình, kết quả học tập nhƣ 
trong kết quả nghiên cứu của Nguyễn Thanh Quý (2010). Đây là vấn đề cần suy nghĩ giải 
quyết để tạo cho sinh viên môi trƣờng học tập tốt nhất, phát huy đƣợc điểm mạnh của mỗi 
sinh viên vì nếu bị áp lực thì sinh viên sẽ không mạnh dạn, không tích cực để tham gia các 
hoạt động học tập và nhƣ vậy sẽ ảnh hƣởng rất lớn đến quá trình học tập và phát triển các kỹ 
năng cần thiết khác. 
 Khi hỏi sinh viên khối D1 về việc có nên tách hai khối D1 và D6 ra để học riêng hay 
không thì kết quả thu đƣợc nhƣ ở biểu đồ 5-11, hơn một nửa (53,9%) cho rằng nên tách riêng 
ra để học vì học chung sẽ rất áp lực khi thấy các bạn khối D6 nói đƣợc nhiều trong khi khối 
D1 chỉ mới bắt đầu học bảng chữ cái...Tuy nhiên cũng có đến 48.1% cho rằng không cần chia 
lớp vì học chung để tạo động lực, cố gắng học cho kịp các bạn khối D6, học chung cũng vui 
có thể hỏi các bạn đã học...Ở biểu đồ 5-12 là kết quả điều tra sinh viên khối D6 khi phải học 
chung lại từ đầu với sinh viên khối D1. Phần lớn sinh viên 75% cho rằng học lại cũng tốt vì 
để ôn lại kiến thức đã học, cách dạy và chƣơng trình ở đại học khác với bậc phổ thông, học ở 
đại học đƣợc rèn luyện các kỹ năng nghe, nói nhiều hơn, học chung có thêm nhiều bạn 
hơn...Có 25% cho rằng học chung lại từ đầu là chậm và quá chậm, với lý do học lại từ đầu sẽ 
chủ quan, mất động lực học và cảm thấy chán. 
Biểu đồ 5-11: Việc tách riêng hai khối Biểu đồ 5-12: Cảm nhận của D6 khi học chung với D1 
Kỷ yếu điện tử Hội thảo Quốc gia Nghiên cứu liên ngành về Ngôn ngữ và Giảng dạy 
ngôn ngữ lần thứ VI 
 479 
 Khi đƣợc hỏi về việc sinh viên khối D6 đã từng giúp đỡ hỗ trợ các bạn sinh viên khối 
D1 trong học tập chƣa, kết quả nhƣ biểu đồ 5-13 cho thấy 80% đã từng giúp đỡ hỗ trợ các bạn 
mới bắt đầu học. Biểu đồ 4-14 thể hiện kết quả của sinh viên khối D6 trả lời về tính hiệu quả 
khi giúp đỡ các bạn khối D1 học. Hiệu quả và tƣơng đối hiệu quả chiếm đến 94,8%, chỉ có 
5,2% cho rằng không hiệu quả với lý do là mình chƣa đủ kiến thức để truyền đạt, không có 
thời gian... 
Biểu đồ 5-13: SV D6 giúp SVD1 Biểu đồ 5-14: Hiệu quả 
6. Thảo luận và đề xuất 
6.1 Thảo luận 
 Với kết quả thu đƣợc cho thấy sinh viên khoa Ngôn ngữ và Văn hóa Nhật Bản còn gặp 
phải nhiều khó khăn trong việc tiếp nhận khối kiến thức khá lớn ở bậc đại học, nhất là sinh 
viên khối D1 rất bị áp lực, thiếu tự tin dẫn đến bị động khi học chung với sinh viên khối D6. 
Ngƣợc lại sinh viên khối D6 phần lớn thì cho rằng học chung lại từ đầu với sinh viên khối D1 
cũng tốt để ôn lại bài, để học thêm các kỹ năng nghe, nói mà ở bậc phổ thông ít đƣợc rèn 
luyện. 
 Sinh viên phần lớn đã chủ động tìm kiếm thông tin, cách học thông qua các hoạt động 
nhƣ câu lạc bộ, xem trên youtube, nghe tin tức, phim ảnh, phim hoạt hình...tuy nhiên, vẫn còn 
nhiều sinh viên chƣa hề tham gia các câu lạc bộ cũng nhƣ không có cơ hội giao tiếp với ngƣời 
Nhật dẫn đến tình trạng thiếu tự tin, bị động ngay cả khi làm nhóm chung với các bạn vì cho 
rằng kiến thức chƣa đủ, các bạn khối D6 giỏi hơn...Đây là vấn đề cần đƣợc quan tâm giải 
quyết tạo cho sinh viên có môi trƣờng học tập tốt nhất, phát huy đƣợc điểm mạnh, tính cách 
của mình tạo động lực trong học tập để đạt đƣợc kết quả tốt hơn và có điều kiện để trau dồi 
các kỹ năng cần thiết cho công việc sau này. 
6.2 Đề xuất 
6.2.1 Về phía cơ quan quản lý 
- Việc ngôn ngữ nào đó đƣợc nhiều ngƣời lựa chọn học hay không, phần nhiều phụ thuộc 
vào việc khi học xong ngƣời đó có đƣợc công việc với ngôn ngữ đó không nên cần có sự quan 
tâm của nhiều cấp, trong đó có nhà trƣờng, các cơ quan phía chính phủ Nhật Bản. Các cơ 
quan chính phủ Nhật Bản nên quan tâm đầu tƣ nhiều hơn cho bậc giáo dục đại học nhƣ phái 
cử giáo viên tình nguyện, thƣờng xuyên tổ chức các buổi tập huấn về phƣơng pháp giảng dạy 
cho không chỉ các giáo viên bậc phổ thông mà cả giáo viên bậc đại học để có sự liên thông từ 
các bậc học. 
Kỷ yếu điện tử Hội thảo Quốc gia Nghiên cứu liên ngành về Ngôn ngữ và Giảng dạy 
ngôn ngữ lần thứ VI 
 480 
- Đối với nhà trƣờng, tạo điều kiện cho sinh viên có thể tham gia trợ giảng bằng cách công 
nhận cho sinh viên hoàn thành các tín chỉ thực tập để vừa động viên vừa tạo trách nhiệm cho 
sinh viên khi tham gia trợ giảng ngoài giờ học của mình. 
6.2.2 Về phía giáo viên 
 - Giáo viên cần chủ động khơi dậy sự tự tin, điểm mạnh trong mỗi sinh viên nhất là 
trong các hoạt động làm nhóm. Giáo viên nên lên kế hoạch cụ thể cho từng tiết học, hƣớng 
dẫn cho sinh viên một cách rõ ràng những việc sinh viên cần thực hiện. Phân bố thời gian hợp 
lý cho sinh viên để tránh gây áp lực cho sinh viên khi làm quá nhiều hoạt động nhóm. 
- Đƣa ra mục tiêu của từng tiết học, từng môn học cho tất cả sinh viên nắm rõ và hƣớng dẫn 
sinh viên tự đánh giá các mục tiêu đã đạt đƣợc hay chƣa để sinh viên có thái độ hợp tác tích 
cực hơn trong giờ học. Cần có đánh giá cho mỗi tiết học để sinh viên có thể nhận thấy đƣợc 
những kết quả của mình sau mỗi giờ học để kịp động động viên khuyến khích sinh viên. 
- Đối với những nhóm học hay lớp học có cả sinh viên khối D1 và D6 nên phân nhóm nhỏ 
cho sinh viên khối D6 vào các nhóm D1 để sinh viên tự chia sẻ, học hỏi lẫn nhau. Nhƣ vậy 
sinh viên khối D6 sẽ thấy bớt nhàm chán, sinh viên khối D1 sẽ bớt cảm giác bị áp lực khi học 
chung với những sinh viên đã học trƣớc đó. 
- Giáo viên cần chú ý đến từng sinh viên với các tính cách khác nhau, thậm chí chỗ ngồi 
của sinh viên để có thể quán xuyến và nắm bắt đƣợc thái độ và có cách xử lý kịp thời tránh để 
sinh viên rơi vào trạng thái chán nản, mất động lực học...làm ảnh hƣởng đến tính tích cực, 
mạnh dạn của sinh viên. 
6.2.3 Về phía sinh viên 
- Cần xác định cách học khi mới bƣớc chân vào giảng đƣờng đại học, tìm cho đƣợc sự 
khác nhau giữa cách học và khối lƣợng kiến thức của bậc phổ thông với bậc đại học, bằng 
cách lập kế hoạch của riêng mình, tự đánh giá sau mỗi giờ học xem mình đã đạt đƣợc mục 
tiêu đề ra hay chƣa. 
- Học cách phải biết học hỏi lắng nghe khi học chung với các bạn có khối thi đầu vào khác 
nhau. Với sinh viên khối D1 nên tạo nhóm học với các bạn khối D6 để không bị áp lực lại vừa 
học hỏi thêm các bạn đã học. Sinh viên khối D6 nên tham gia các hoạt động hỗ trợ các bạn 
khối D1 với tinh thần vừa củng cố lại kiến thức đã học vừa giúp đỡ đƣợc các bạn mới học. 
7. Kết luận 
Xu thế hội nhập và từng bƣớc nâng cao chất lƣợng đào tạo nguồn nhân lực tiếng Nhật, Khoa 
Ngôn ngữ và Văn hóa Nhật Bản, trƣờng Đại học Ngoại ngữ, Đại học Huế cần nhìn nhận, đánh 
giá về công tác trọng tâm này để từ đó có kế hoạch, định hƣớng cho những năm tiếp theo và 
hƣớng tới mục tiêu đào tạo ra nguồn nhân lực chất lƣợng cao đáp ứng đƣợc nhu cầu của xã 
hội và các nhà tuyển dụng. Muốn vậy, cần phải có sự phối hợp chặt chẽ của các bậc học, có 
sự liên thông kết nối không chỉ trong chƣơng trình đào tạo mà phải có sự đồng thuận thống 
nhất chung trong cách đánh giá tầm quan trọng của giáo dục tiếng Nhật từ bậc trung học cơ sở 
lên đến đại học. 
Kỷ yếu điện tử Hội thảo Quốc gia Nghiên cứu liên ngành về Ngôn ngữ và Giảng dạy 
ngôn ngữ lần thứ VI 
 481 
Sinh viên khoa Ngôn ngữ và Văn hóa Nhật Bản phần lớn đã tích cực tham gia các hoạt động 
học. Tuy nhiên vì có đặc thù là có hai khối sinh viên thi đầu vào khác nhau nên có sự khác 
nhau giữa tính tích cực của sinh viên khối D6 và D1. Do sinh viên khối D6 đã đƣợc học từ 
bậc phổ thông nên tự tin và mạnh dạn hơn sinh viên khối D1 phải học từ đầu, chính vì sự 
mạnh dạn nên thƣờng tích cực hơn trong các hoạt động làm nhóm, trình bày...và khi làm 
nhóm thì thƣờng có xu hƣớng nêu lên ý kiến của mình và bảo vệ ý kiến của mình làm cho 
sinh viên khối D1 mất tự tin và bị động. Tuy nhiên, điều này giảm dần khi sinh viên lên năm 
2, 3 và không còn ở năm 4. Tách riêng hai khối để dạy là điều lý tƣởng nhƣng trong điều kiện 
chƣa cho phép về số lƣợng đội ngũ giáo viên thì học chung là điều không tránh khỏi, chính vì 
vậy cần phải tìm ra phƣơng pháp tốt nhất nhƣ mô hình khuyến khích sinh viên khối D6 học 
nhóm với khối D1 để hỗ trợ giúp đỡ nhất là thời gian đầu khi mới làm quen với bảng chữ cái, 
để sinh viên hai khối có thể phát huy tính tích cực, điểm mạnh của mỗi cá nhân vừa có thể hỗ 
trợ nhau trong học tập là điều mà chúng tôi quan tâm nghiên cứu. Làm thế nào phát huy 
những kiến thức đã học ở bậc phổ thông để những sinh viên đã học khối D6 có thể vừa có 
hứng thú học trong môi trƣờng chủ yếu với các sinh viên mới bắt đầu học D1, và các sinh 
viên khối D1 không bị áp lực khi học chung với khối D6 là một vấn đề cần đƣợc nhanh chóng 
giải quyết. 
Tài liệu tham khảo 
Chiến lƣợc phát triển giáo dục Việt Nam 2009 – 2020 (dự thảo lần thứ 14) về định hƣớng phát triển 
giáo dục. 
Funahashi Hiroyo (2015)、『 外国人学生の自律的な日本語学習を支えるしくみ -アクティ
ブラーニングにおける位置づけ-』、鈴鹿大学紀要(22)、63-77。 
Kita Yoko (2019)、『AL を活用した初等中等外国語教育における授業観察の一考察 ~アク
ティブ・ラーニングと効果的なフィードバック~』、鳴門教育大学情報教育ジャーナル、番
号 16 pp.17-20、 2019. 
Mizogami Shinichi (2014).『アクティブラーニングと教授学習パラダイムの変換』東信堂 
Nguyễn Quý Thanh & Nguyễn Trung Kiên (2012). Tính tích cực học tập của sinh viên: Một phân tích 
về khoảng cách giữa nhận thức và thực hành. Tạp chí Tâm lý học, 8 (161) 41-54. 
Nguyễn Thị Ngọc Xuân (2016). Phát huy tính tích cực của sinh viên trong dạy học các môn tâm lý 
học, giáo dục học đại cƣơng. Văn hóa – Giáo dục – Nghệ thuật, 23, 28-32. 
Võ Bình Nguyên (2014). Tính tích cực học tập của sinh viên Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí 
Minh: Nghiên cứu so sánh theo giới tính. Luận văn thạc sỹ. Đại học Quốc gia Hà Nội viện đảm bảo 
chất lƣợng giáo dục, p27. 
Kỷ yếu điện tử Hội thảo Quốc gia Nghiên cứu liên ngành về Ngôn ngữ và Giảng dạy 
ngôn ngữ lần thứ VI 
 482 
LEARNING ACTIVENESS OF STUDENTS FROM FACULTY OF 
JAPANESE LANGUAGES & CULTURE, HUE UNIVERSITY OF 
FOREIGN LANGUAGES 
Abstract 
This study looks into the active learning activities of students at the Faculty of Japanese, 
the University of Foreign Languages, Hue University (HU-UFL). The focus is on the 
differences in active learning activities of students with and without basic Japanese 
background when they start the courses. The findings show that most of the students are 
proactive in their learning. However, the difference in the background knowledge makes 
it more difficult for students without basic Japanese background. The results suggest that 
measures should be taken to help student with background knowledge make progress and 
at the same time encourage those without background knowledge to study with ease. 
Keywords 
learning activeness, Student D1 and D6, teamwork 

File đính kèm:

  • pdftinh_tich_cuc_hoc_tap_cua_sinh_vien_khoa_ngon_ngu_va_van_hoa.pdf