Tiếp cận dịch vụ y tế của người lao động tại các khu công nghiệp

Dịch vụ y tế là một trong những dịch vụ xã hội cơ bản nhằm đáp

ứng những nhu cầu thiết yếu hàng ngày của con người. Cải thiện

dịch vụ và nâng cao năng lực cung cấp dịch vụ y tế cho người lao

động giúp đảm bảo người lao động được chăm sóc sức khỏe, có

điều kiện cống hiến sức lao động, sức sáng tạo cho sản xuất. Vấn

đề tiếp cận dịch vụ y tế của người lao động tại các khu công nghiệp

hiện nay đang gặp phải những vướng mắc gì? Giải pháp nào để cải

thiện khả năng tiếp cận dịch vụ y tế? Bài viết sau đây sẽ làm rõ các

vấn đề trên.

Tiếp cận dịch vụ y tế của người lao động tại các khu công nghiệp trang 1

Trang 1

Tiếp cận dịch vụ y tế của người lao động tại các khu công nghiệp trang 2

Trang 2

Tiếp cận dịch vụ y tế của người lao động tại các khu công nghiệp trang 3

Trang 3

Tiếp cận dịch vụ y tế của người lao động tại các khu công nghiệp trang 4

Trang 4

Tiếp cận dịch vụ y tế của người lao động tại các khu công nghiệp trang 5

Trang 5

Tiếp cận dịch vụ y tế của người lao động tại các khu công nghiệp trang 6

Trang 6

pdf 6 trang xuanhieu 4320
Bạn đang xem tài liệu "Tiếp cận dịch vụ y tế của người lao động tại các khu công nghiệp", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Tiếp cận dịch vụ y tế của người lao động tại các khu công nghiệp

Tiếp cận dịch vụ y tế của người lao động tại các khu công nghiệp
hà nước vào phát triển ngành y tế giúp vì các giá trị nhân văn, xã hội; xây dựng
giảm áp lực đối với ngân sách nhà nước; những tiêu chuẩn, quy trình thống nhất, chặt
tăng các tiềm lực về vốn, công nghệ, nhân chẽ của các dịch vụ y tế.
lực cho sự phát triển của ngành y tế; tạo tính 2. Tiếp cận dịch vụ y tế của người lao
năng động, cạnh tranh trong cung ứng dịch động tại các khu công nghiệp
vụ y tế nhằm nâng cao chất lượng phục vụ - Những kết quả đạt được
cũng như hạ giá thành dịch vụ, đem lại lợi Hiện nay, hệ thống pháp luật về y tế của
ích cho người dân. nước ta tương đối đầy đủ; nhiều văn bản quy
 Thứ tư , dịch vụ y tế phát triển tạo động phạm pháp luật trực tiếp và gián tiếp điều
lực cho sự phát triển của khoa học kỹ thuật chỉnh các hoạt động y tế như: Luật Bảo vệ
đặc biệt là y tế công nghệ cao; tạo cơ hội cho sức khỏe nhân dân năm 1989, Luật Dược
các nghiên cứu khoa học, phát minh ra các năm 2005, Luật Phòng, chống bệnh truyền
sản phẩm, dịch vụ mới, hiệu quả chăm sóc nhiễm năm 2007, Luật Bảo hiểm y tế
toàn diện hơn cho sức khỏe con người. (BHYT) năm 2008, Luật Khám bệnh, chữa
 Dịch vụ y tế là một loại dịch vụ đặc biệt bệnh năm 2009, Luật sửa đổi, bổ sung một
bởi “hàng hóa” mà dịch vụ này kinh doanh số điều của Luật BHYT năm 2014 cùng
3 Wiliam C.Hsiao. Abnormal economics in the Healthy sector, 1995.
36 NGHIÊN CỨU
 LẬP PHÁP Số 20 (420) - T10/2020
 CHÍNH SÁCH
hàng loạt các văn bản quy phạm pháp luật pháp lý cho hoạt động quản lý nhà nước về
khác hướng dẫn thi hành các luật, pháp lệnh y tế, dịch vụ y tế; là căn cứ cho các hoạt
trên. Tuy nhiên, đối với khu công nghiệp thì động liên quan đến y tế của các cá nhân,
các quy định về quản lý y tế nằm rải rác doanh nghiệp, tổ chức; tạo điều kiện thuận
trong một số văn bản luật như: Nghị định số lợi cho người lao động tiếp cận được với
75/2017/NĐ-CP quy định chức năng, nhiệm dịch vụ y tế
vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Y
tế; Thông tư số 19/2016/TT-BYT đề cập đến Theo số liệu điều tra của Viện Khoa học
trách nhiệm của cơ quan liên quan trong thực môi trường và xã hội trong khuôn khổ đề tài
hiện quan trắc môi trường lao động và chăm “Quản lý các vấn đề xã hội tại các Khu công
sóc sức khỏe người lao động tại các khu nghiệp ở Việt Nam” số doanh nghiệp tổ chức
công nghiệp theo sự phân công của Bộ Y tế. khám sức khỏe định kỳ (SKĐK) cho người
Hệ thống các văn bản pháp luật trên là cơ sở lao động tương đối cao. 
 Theo số liệu trên có tới 93.4 % người lao động được đóng BHYT không chỉ giúp
động trả lời doanh nghiệp có tổ chức khám người lao động được hưởng lợi ích từ
SKĐK cho người lao động và 91,1% trong BHYT, phòng ngừa các rủi ro khi có bệnh
số đó trả lời doanh nghiệp chi trả cho các nặng mà còn đóng góp vào quỹ BHYT, giúp
hoạt động khám SKĐK. Kết quả tiếp theo phát triển chất lượng dịch vụ y tế quốc gia. 
trong nâng cao khả năng tiếp cận các dịch vụ Hiện nay, các chính sách về BHYT đã
y tế đó là số người lao động được đóng thực sự tiếp cận được với đời sống thực tiễn,
BHYT chiếm tỷ lệ cao trong tổng số người điều này được thể hiện ở số lao động biết
lao động. Theo số liệu điều tra của Viện đến các chính sách cũng như khả năng tiếp
Khoa học Môi trường và Xã hội, có cận với các chính sách trên. Nhận thức
1823/1880 lao động trả lời được doanh chung của người lao động về các quy định,
nghiệp đóng bảo hiểm bắt buộc, trong đó có chính sách liên quan đến BHYT đã tăng theo
BHYT, chiếm tỷ lệ 97%. Việc người lao từng năm.
 NGHIÊN CỨU 37
 Số 20 (420) - T10/2020 LẬP PHÁP
CHÍNH SÁCH
 Với khoảng 90% số lao động biết đến tiếp cận với các lợi ích mà BHYT mang lại.
cũng như tiếp cận được với các chính sách - Các quy định về khám sức khỏe định
về BHYT, có thể thấy BHYT đang dần được kỳ còn thiếu tính chặt chẽ về một số điểm
phổ cập trong xã hội, đem lại những giá trị như quy định cơ sở y tế được phép tổ chức
to lớn về mặt an sinh xã hội. So với nhiều SKĐK, các hạng mục sức khỏe bắt buộc
chính sách khác, chính sách BHYT đem lại thăm khám. Đặc biệt, cơ chế xử lý, xử phạt
nhiều lợi ích trong thực tiễn nhất, được với các doanh nghiệp, chủ lao động không
người dân chú ý tới nhiều nhất. Trong đó có thực hiện khám SKĐK cho người lao động
tới 87.1% người lao động cho rằng họ đã với các cơ sở y tế vi phạm chức năng, quy
được thụ hưởng các lợi ích từ BHYT 4. Đây trình cấp giấy khám SKĐK... còn nhẹ. Ban
là những kết quả to lớn mà ngành y tế đã đạt Quản lý các Khu công nghiệp có chức năng
được trong thời gian qua và trong thời gian kiểm tra, phát hiện các sai phạm về y tế trong
tới cần phát huy hơn nữa để đảm bảo 100% khu công nghiệp, nhưng lại chưa được quy
người lao động tại các Khu công nghiệp định chức năng xử lý, xử phạt do đó hiệu lực
được tiếp cận với các chính sách về BHYT. quản lý chưa cao.
 Ngoài các kết quả trên, công tác chăm - Các quy định về bệnh nghề nghiệp:
sóc sức khỏe cho người lao động tại các khu Hiện chưa có các văn bản quy định về phối
công nghiệp còn đạt được một số kết quả kết hợp giữa hệ thống khám bệnh nghề
khác như: Công đoàn các cấp phối hợp với nghiệp và giám định bệnh nghề nghiệp nhằm
các doanh nghiệp, các trung tâm y tế tổ chức thực hiện kịp thời và đầy đủ chế độ và chính
nhiều hoạt động tư vấn, thăm khám, cấp phát sách đối với người lao động. Việc làm thủ
thuốc về nhiều chủ đề sức khỏe như sức tục và hoàn tất hồ sơ gửi giám định phụ
khỏe sinh sản, sức khỏe lao động, bệnh nghề thuộc vào việc tuân thủ quy định của người
nghiệp cho người lao động; các hoạt động sử dụng lao động. Đối với trường hợp người
nhằm tuyên truyền, nâng cao hiểu biết về sức lao động nghỉ hưu, nghỉ việc, bị thôi việc
khỏe cũng như các chính sách về y tế đã chưa có cơ quan nào chịu trách nhiệm thực
thường xuyên được tổ chức; nhiều doanh hiện các hồ sơ để khám, giám định bệnh
nghiệp đã xây dựng được các trung tâm nghề nghiệp; chưa có văn bản quy định
chăm sóc sức khỏe, tủ sách - tủ thuốc y tế, thanh toán một phần tiền khám và chữa bệnh
các quỹ chăm sóc sức khỏe cho người lao cho người lao động bị mắc bệnh nghề nghiệp
động của doanh nghiệp mình. trong quỹ BHYT vào danh mục các bệnh
 - Những hạn chế, bất cập điều trị dài ngày.
 Bên cạnh những kết quả đã đạt được, Chính một số điểm bất cập của hệ thống
thực tế hiện nay còn nhiều hạn chế, bất cập chính sách về y tế, đặc biệt những hạn chế về
về tiếp cận dịch vụ y tế của người lao động chế tài xử lý đã dẫn tới tình trạng các doanh
tại các khu công nghiệp như: những hạn chế nghiệp thực hiện đóng BHYT cho người lao
về chính sách; ý thức tuân thủ luật pháp của động mang tính hình thức, đối phó với các cơ
các doanh nghiệp; ý thức của người lao động quan quản lý nhà nước. Theo đó, doanh
về y tế. nghiệp chỉ tổ chức khám cho một bộ phận
 Trước hết, hệ thống chính sách về y tế người lao động; chỉ đăng ký khám một số
của nước ta khi áp dụng vào quản lý y tế tại hạng mục nhất định; mua giấy khám SKĐK
các khu công nghiệp đã bộc lộ một số hạn Mặc dù đượ c đóng BHYT, nhưng người
chế như: lao động chưa tận dụng được hết các giá trị
 - Các quy định về hưởng BHYT trái lợi ích to lớn mà thẻ BHYT đem lại. Nguyên
tuyến đang gây trở ngại cho người lao động nhân khách quan là do các quy định về
4 Số liệu điều tra của Viện Khoa học Môi trường và Xã hội.
38 NGHIÊN CỨU
 LẬP PHÁP Số 20 (420) - T10/2020
 CHÍNH SÁCH
hưởng BHYT còn nhiều vướng mắc; các cơ xử lý tình huống. Tình trạng các cơ sở khám
sở khám chữa bệnh ban đầu theo đăng ký chữa bệnh chưa đáp ứng được nhu cầu thực
của thẻ BHYT hầu hết chưa đáp ứng các yêu tế do chưa có cơ chế chính sách rõ ràng về
cầu về cơ sở vật chất, trang thiết bị máy móc, việc buộc phải xây dựng các cơ sở chăm sóc
trình độ y bác sỹ; thời gian khám chữa bệnh sức khỏe trong quy hoạch của các khu công
chưa phù hợp với thời gian làm việc của nghiệp; do hạn chế về nhận thức cũng như
người lao động do đó người lao động kinh phí, quỹ đất của các doanh nghiệp; chưa
thường khám chữa bệnh vượt tuyến hoặc lựa xây dựng được cơ chế phối hợp giữa các cơ
chọn khám tư nhân. Nguyên nhân chủ quan quan chuyên môn nhà nước, doanh nghiệp,
xuất phát từ nhận thức về BHYT của người các khu công nghiệp
lao động còn rất hạn chế. Theo kết quả điều Về vấn đề chăm sóc sức khỏe sinh sản
tra của Tổng liên đoàn Lao động Việt Nam cho công nhân nữ, lao động nữ hiện chiếm
phối hợp với tổ chức ILO được thực hiện tại tỷ lệ khoảng 58,6% tổng số lao động tại các
hai tỉnh có số khu công nghiệp lớn là Bắc Khu công nghiệp 6. Hầu hết lao động nữ nằm
Ninh và Bình Dương vào tháng 11/2019 thì trong độ tuổi dưới 35, là độ lập gia đình, sinh
có tới 40% người lao động không nắm rõ về con; do đó, việc chăm sóc sức khỏe sinh sản
cơ chế chi trả, mức đóng góp của bảo hiểm cho công nhân nữ là rất cần thiết. Tuy nhiên,
y tế 5. Cũng theo báo cáo này, hơn một nửa vấn đề này hiện chưa được quan tâm đúng
số người có thẻ BHYT tham gia nghiên cứu mức. Công nhân nữ dễ mắc các bệnh lý về
đã trả lời họ sử dụng các cơ sở y tế không đường sinh sản, dễ chịu tác động từ các môi
phải cơ sở đăng ký ban đầu, nguyên nhân là trường làm việc độc hại; dễ chịu các tổn
do cơ sở y tế đó xa nhà, giờ phục vụ bất tiện, thương về sức khỏe do nạo phá thai, các
thời gian chờ đợi lâu và không hài lòng với bệnh tình dục lây nhiễm 
các dịch vụ y tế tại đây. Về phụ cấp độc hại, phụ cấp độc hại
 Hiện nay, một trong những vấn đề về y được hiểu là khoản tiền được trả thêm cho
tế nổi cộm tại các khu công nghiệp là các cơ người lao động khi người lao động làm việc
sở y tế tại doanh nghiệp chưa đáp ứng được trong điều kiện có các yếu tố nguy hiểm, độc
các yêu cầu của số đông người lao động. hại hoặc đặc biệt nguy hiểm, độc hại. Khoản
 Theo số liệu trên cho thấy, mặc dù số phụ cấp này được trả bù đắp cho người lao
lượng lao động tại các khu công nghiệp rất động một phần sức khỏe, tổn hại về tinh
lớn nhưng mới chỉ 64,6% số khu công thần, thể chất, hoặc thậm chí là khả năng lao
nghiệp là có phòng khám bệnh, trong đó các động. Thông thường, quy định về phụ cấp
cơ sở đảm bảo về quy mô và chất lượng độc hại được thể hiện trong hợp đồng lao
khám bệnh lại càng ít. Số lượng các cơ sở động, thỏa ước lao động. Tuy nhiên, việc
chăm sóc sức khỏe mới chỉ đáp ứng được thực hiện chế độ phụ cấp độc hại cho người
34.9% nhu cầu của người lao động. Tình lao động hiện còn nhiều bất cập; nguyên
trạng chung của các cơ sở khám bệnh tại các nhân từ việc người lao động khó nắm được
khu công nghiệp là nghèo nàn về trang thiết căn cứ đánh giá thế nào là làm việc trong
bị, máy móc; nhân sự không đáp ứng về cả môi trường nguy hiểm; độc hại; các cấp độ
số lượng cũng như chuyên môn; chỉ giải đánh giá cũng như mức phụ cấp tương ứng;
quyết một số trường hợp bệnh đơn giản. Do người lao động chưa nắm rõ các quy định
đó, khi xảy ra các tình huống bất thường như của pháp luật về phụ cấp này; các doanh
dịch bệnh, ngộ độc tập thể, tai nạn lao động nghiệp cố tình không thực hiện đúng trách
tập thể các cơ sở này khó có thể ứng phó, nhiệm của mình. Thực tế cho thấy, nhiều
5 Số liệu báo cáo của Dự án Hỗ trợ mở rộng Bảo vệ sức khỏe xã hội ở Đông Nam Á (ILO-Lux).
6 Số liệu điều tra của Viện Khoa học Môi trường và Xã hội.
 NGHIÊN CỨU 39
 Số 20 (420) - T10/2020 LẬP PHÁP
CHÍNH SÁCH
doanh nghiệp đã áp dụng các chiêu trò để định về cơ sở khám chữa bệnh ban đầu cũng
lách luật như việc luân chuyển lao động giữa như khám chữa trái tuyến bảo hiểm.
các bộ phận thường xuyên; luân chuyển, Thứ hai , cần xây dựng các quy định về
thay đổi vị trí làm việc không theo hợp đồng thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm về BHYT
ký kết ban đầu với người lao động; tính gộp chặt chẽ hơn, hiệu quả hơn, mạnh mẽ hơn.
phụ cấp độc hại với các khoản trợ cấp, Thứ ba , bổ sung quy định cụ thể, chặt
thưởng khác chẽ về khám SKĐK đối với người lao động
3. Kiến nghị giải pháp nâng cao mức độ tại các khu công nghiệp (hạng mục khám,
tiếp cận dịch vụ y tế của người lao động tiêu chuẩn của cơ sở cấp giấy khám, chế tài
tại các khu công nghiệp xử lý với các sai phạm); về bệnh lý nghề
 Để đảm bảo quyền được chăm sóc sức nghiệp (trợ cấp độc hại, khám phát hiện bệnh
khỏe, Nhà nước thông qua chức năng quản nghề nghiệp, mức bồi thường) 
lý tạo cơ chế, hành lang pháp lý, điều kiện, Thứ tư , ban hành văn bản quy định,
cơ sở để người lao động tiếp cận với các dịch hướng dẫn cụ thể về việc thành lập bộ phận
vụ y tế, chăm sóc sức khỏe. Để bảo đảm chăm sóc y tế tại các khu công nghiệp; các
nâng cao mức độ tiếp cận dịch vụ y tế của công trình y tế tại các khu công nghiệp dựa
người lao động tại các khu công nghiệp, cần vào quy hoạch phát triển các khu công
thống nhất một số quan điểm quản lý về dịch nghiệp; quy mô lao động của các doanh
vụ y tế sau đây: nghiệp. 
 - Trước hết, cần xác định dịch vụ y tế ở Cùng với việc hoàn thiện pháp luật,
đây không chỉ là các hoạt động chăm sóc sức chúng tôi cho rằng, cần vận dụng các giải
khỏe công do Nhà nước cung cấp mà bao pháp sau để triển khai thực hiện các quy
gồm cả các dịch vụ y tế do tư nhân đầu tư, định về tiếp cận dịch vụ y tế của người lao
dưới sự quản lý của Nhà nước. Điều này động tại các khu công nghiệp:
đồng nghĩa với việc chăm sóc sức khỏe cho Thứ nhất , với các cơ sở y tế công tại các
người lao động là trách nhiệm, nghĩa vụ khu công nghiệp: Bố trí bộ khám chữa bệnh
không phải chỉ của Nhà nước mà còn của ngoài giờ hành chính để đáp ứng nhu cầu
người sử dụng lao động và của cả xã hội. của người lao động tại các khu công nghiệp;
 - Việc tiếp cận dịch vụ y tế của người lao có cơ chế phối hợp với các cơ sở y tế của
động tại các khu công nghiệp không chỉ đảm doanh nghiệp, của các khu công nghiệp
bảo người lao động được chăm sóc sức khỏe trong hỗ trợ đào tạo; trong phối hợp thăm
ở mức cơ bản mà còn được bảo vệ trước các khám, điều trị; tuyên truyền kiến thức về
bệnh lý nghề nghiệp; đảm bảo tiếp cận chăm pháp luật, về cách chăm sóc sức khỏe
sóc sức khỏe của tất cả các nhóm lao động Thứ hai , với các doanh nghiệp: Thành
từ lao động chính thức, lao động hợp đồng lập bộ phận phụ trách quản lý y tế, các thủ
 - Q uản lý tiếp cận dịch vụ y tế không chỉ tục về bảo hiểm y tế, khám SKĐK, bệnh lý
nhằm để người lao động được đảm bảo chăm nghề nghiệp được đào tạo, nắm vững các
sóc sức khỏe của bản thân mà còn quản lý để quy định của pháp luật; xây dựng, đầu tư cơ
người sử dụng lao động thực hiện đúng trách sở chăm sóc sức khỏe tại doanh nghiệp, đáp
nhiệm của mình với người lao động. ứng nhu cầu của người lao động; 
 Trên cơ sở những quan điểm nêu trên, Thứ ba , trong quy hoạch các khu công
chúng tôi đề xuất một số giải pháp nâng cao nghiệp, cần chú ý tới đồng bộ hạ tầng sản
mức độ tiếp cận dịch vụ y tế của người lao xuất với hạ tầng các dịch vụ xã hội cơ bản
động tại các khu công nghiệp sau đây: như y tế, giáo dục, văn hóa
 Thứ nhất , hoàn thiện Luật BHYT theo Thứ tư , phân bổ và sử dụng các nguồn
hướng đơn giản hóa các thủ tục khám chữa lực tài chính công bằng và hiệu quả. Huy
bệnh, hưởng quyền lợi từ BHYT; các quy động nguồn vốn xã hội để đầu tư xây dựng
40 NGHIÊN CỨU (Xem tiếp trang 48)
 LẬP PHÁP Số 20 (420) - T10/2020

File đính kèm:

  • pdftiep_can_dich_vu_y_te_cua_nguoi_lao_dong_tai_cac_khu_cong_ng.pdf