Tiếp biến văn hóa Phật giáo trong đạo Cao Đài

Trên cơ sở kết hợp nhuần nhuyễn giữa văn hóa nội sinh và văn hóa

ngoại sinh ở Nam Bộ, Việt Nam vào nửa đầu thế kỷ XX, đạo Cao Đài đã ra

đời và ngày càng phát triển. Bài viết trình bày và phân tích đạo Cao Đài đã

tiếp biến nhiều yếu tố văn hóa vật thể và phi vật thể của Phật giáo Đại Thừa,

một tôn giáo đã phổ biến sâu rộng ở Nam Bộ lúc bấy giờ.

Tiếp biến văn hóa Phật giáo trong đạo Cao Đài trang 1

Trang 1

Tiếp biến văn hóa Phật giáo trong đạo Cao Đài trang 2

Trang 2

Tiếp biến văn hóa Phật giáo trong đạo Cao Đài trang 3

Trang 3

Tiếp biến văn hóa Phật giáo trong đạo Cao Đài trang 4

Trang 4

Tiếp biến văn hóa Phật giáo trong đạo Cao Đài trang 5

Trang 5

Tiếp biến văn hóa Phật giáo trong đạo Cao Đài trang 6

Trang 6

Tiếp biến văn hóa Phật giáo trong đạo Cao Đài trang 7

Trang 7

Tiếp biến văn hóa Phật giáo trong đạo Cao Đài trang 8

Trang 8

Tiếp biến văn hóa Phật giáo trong đạo Cao Đài trang 9

Trang 9

pdf 9 trang xuanhieu 1840
Bạn đang xem tài liệu "Tiếp biến văn hóa Phật giáo trong đạo Cao Đài", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Tiếp biến văn hóa Phật giáo trong đạo Cao Đài

Tiếp biến văn hóa Phật giáo trong đạo Cao Đài
Ninh hay các tòa 
Thánh thất tại các địa phương có thiết đại lễ cúng vía Đức Phật Thích Ca. Tuy nhiên, sự 
tiếp biến thể hiện rõ khi đạo Cao Đài cho rằng Đức Phật là một người đệ tử của Thượng 
đế (đấng Chí tôn) thay Thượng đế giảng giải đạo lý của mình trong thời kỳ đầu. Về vị 
trí thờ tự thay vì tượng Phật Thích Ca ở giữa hai bên là Bồ tát Quan Âm và Địa Tạng 
hay Bồ tát Văn Thù và Phổ Hiền như trong Phật giáo thì hình tượng Phật Thích Ca 
trong đạo Cao Đài cũng được thờ ở giữa nhưng hai bên là Lão tử và Khổng tử. 
TIẾP BIẾN VĂN HÓA PHẬT GIÁO TRONG ĐẠO CAO ĐÀI 53 
 Tam Thánh Ta Bà (nguồn: thuanduyen.com) Thánh đạo ngũ chi 
 (nguồn: sites.google.com) 
2.2. Đức Phật Di Lặc 
Trong kinh điển Phật giáo thì ngài Di Lặc được sinh trong một gia đình Bà-la-môn, xuất 
gia làm đệ tử của đức Phật Thích Ca, sau đó nhập Niết-bàn trước đức Phật Thích Ca. 
Hiện tại ngài Di Lặc đang ở cung trời Đâu Suất thuyết pháp, là người được đức Phật 
Thích Ca thọ ký sẽ làm Phật tiếp theo ở cõi ta bà. Trong Di Lặc chơn kinh của Đạo Cao 
Đài cho thấy Đức Phật Thích Ca đã giao cho ngài Di Lặc hóa độ chúng sanh trong thời 
kỳ thứ ba [12]. Về mặt hình tượng thì hình tượng đức Phật Di Lặc trong Cao Đài kế 
thừa hình tượng của Phật giáo. Cũng trong Di Lặc chơn kinh chúng ta thấy có sự xuất 
hiện danh hiệu của một số vị bồ tát như: “Nhược hữu thiện nam tử, thiện nữ nhân, tín 
ngã ưng đương phát nguyện Nam Mô Chuẩn Đề Bồ tát, Phổ Hiền Bồ tát, năng trừ ma 
chướng quỉ tai, năng cứu khổ ách nghiệp chướng, năng độ chúng sanh qui ư Cực-Lạc, 
tất đắc giải thoát.”. Hay “Nhược hữu chúng sanh văn ngã ưng đương thoát nghiệt, 
niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng, tùng thị Pháp điều Tam-kỳ Phổ-độ, tất đắc giải 
thoát luân hồi, đắc Lộ Đa-La Tam-Diệu Tam-Bồ-Đề, thị chi chứng quả Cực-Lạc Niết-
Bàn”[13]. Các danh hiệu “Chuẩn Đề Bồ tát”, “Phổ Hiền Bồ tát” là danh hiệu của các 
vị Bồ tát được xuất hiện trong rất nhiều bản kinh Phật như Pháp Hoa, Hoa Nghiêm. 
“Phật”, “Pháp”, “Tăng” là ba ngôi tam bảo trong đạo Phật. 
 2.3. Phật Nhiên Đăng 
Phật Nhiên Đăng là một vị cổ Phật trong Phật giáo, là người đã thọ ký cho đức Thích 
Ca thành Phật [14, tr.4331]. Theo giải thích của đạo Cao Đài, Nhiên Đăng là một vị cổ 
Phật ở Ấn Độ. Hiện tại đức Phật làm chưởng giáo Sơ Hội Long Hoa Thanh Vương đại 
hội, đang chưởng quản tầng trời Hư Vô Thiên. Trong Thánh Giáo Minh Thiện Đàn có 
54 ĐẶNG VĂN CHƯƠNG, TRẦN THỊ THU HÀ 
ghi chép bốn bài giáng cơ như sau: 1. “Nhiên Đăng phụng lịnh Đức Cao Đài,/ Thuận ý 
Ngọc Hoàng, ngã giáng lai./ Bồ Tát chơn truyền vô tận ý,/ Ma Ha tự đắc độ hàn tai.”; 
2. “Nhiên Đăng thương xót kẻ trần gian,/ Nên xuống Linh san đặng cứu nàn./ Khổ ách 
kia qua, tai trở lại,/ Lòng từ chơn thật đến Thiên đàng”; 3. “Nhiên Đăng Cổ Phật giáo 
từ đa,/ Dục đắc chơn truyền nguyện Thích Ca./ Nhứt bất ly kinh vô thế sự,/ Tây phương 
đắc ngộ lạc như hà.”; 4. “Nhiên Đăng Cổ Phật giáo từ đa,/ Dục đáo Niết Bàn nguyện 
Thích Ca./ Tu khả miễn hành kỳ thiện đạo,/ Văn kỳ chánh ngữ nguyện Di-Đà [15]. 
2.4. Quan Thế Âm Bồ tát 
Bồ tát Quan Âm là vị bồ tát phát nguyện hễ ai đau khổ niệm danh hiệu ngài thì ngài liền 
quán sát âm thanh và cứu độ. Trong Tây phương tam thánh thì ngài cùng với bồ tát Đại 
Thế Chí đứng hai bên tượng Phật A Di Đà. Về Tam thánh ta bà thì ngài cùng với ngài 
Địa Tạng bồ tát đứng hai bên của tượng Phật Thích Ca. Về tín ngưỡng Quán Thế Âm 
trong đạo Phật chỉ cho tông giáo lấy hình tượng bồ tát Quan Thế Âm để thờ phụng và 
đọc tụng kinh Phổ Môn cũng như niệm danh hiệu của bồ tát. Đạo Cao Đài đã kế thừa 
hình tượng Bồ tát Quan Âm trong Phật giáo và cho rằng bồ tát là người nắm quyền Phật 
giáo trong thời kỳ thứ ba. Trong Tam chấn oai nghiêm của đạo Cao Đài thì bồ tát Quán 
Thế Âm ở vị trí phía tay trái dưới Lão tử (hình thánh đạo ngũ chi). Theo đạo Cao Đài 
dưới hình thức cơ bút, cụ thể trong LUẬT TAM THỂ, Bát Nương có nói: “Dưới quyền 
của Phật Mẫu có Cửu Tiên Nương trông nom về Cơ Giáo hóa cho vạn linh, còn ngoài 
ra có hằng hà sa số Phật trông nom về Cơ Phổ độ mà Quan Thế Âm Bồ Tát là Đấng 
cầm đầu. Quan Thế Âm Bồ Tát ngự tại Cung Nam Hải, ở An Nhàn Động, còn Cung 
Diêu Trì thì ở tại Tạo Hóa Thiên” [16]. Hình tượng Quan Âm còn xuất hiện trong 
những bài giảng, ví dụ: “QUAN trường như áo mặc rồi thay,/ ÂM chất người ôi! kíp tạo 
gầy;/ BỒ liễu nam nhân tua gắng chí,/ TÁT nhơn tác phúc chốn trần ai”[17]. Hay 
trong kinh Cầu Siêu: “Quan Thế Âm lân mẫn ân cần,/ Vớt lê thứ khổ trần đọa lạc” [18]. 
2.5. Phật A Di Đà 
Đức Phật A Di Đà là một vị Phật thời quá khứ trong đạo Phật. Ngài là giáo chủ ở cõi 
Tây phương cực lạc, với lời nguyện hễ ai trước lúc mệnh chung niệm danh hiệu của đức 
Phật từ một niệm cho đến mười niệm thì liền được đức Phật và thánh chúng hiện trước 
mặt tiếp dẫn về cõi nước của ngài. Đạo Cao Đài cũng tiếp nhận hình tượng của đức Phật 
A Di Đà, tuy nhiên có sự tiếp biến rõ rệt. Cụ thể, đạo Cao Đài nói rằng đức Phật Di Đà 
trong thời kỳ thứ ba giao lại cho ngài Di Lặc làm chủ cõi Cực Lạc. Còn Đức A-Di-Đà 
Phật vào Lôi Âm Tự cùng Đức Phật Thích Ca tại Kim Sa Đại điện trong Kim Tự Tháp 
[19]. Ngoài ra trong lúc cầu siêu, hình tượng đức Phật Di Đà cũng xuất hiện nhằm cứu 
độ và tiếp dẫn chúng sanh như trong đạo Phật cụ thể như trong bài kinh cầu siêu: “Đầu 
vọng bái Tây Phương Phật Tổ, A Di Đà Phật độ chúng dân”[20]. 
2.6. Địa Tạng bồ tát 
Trong đạo Phật, Địa Tạng là vị bồ tát phát nguyện cứu vớt chúng sanh trong sáu đường 
[21]. Trong đạo Cao Đài, hình tượng Địa Tạng bồ tát thường xuất hiện trong kinh cầu 
siêu “Đại Thánh Địa Tạng Vương Bồ Tát./ Bố từ bi tế bạt vong hồn” [22]. Hay trong 
TIẾP BIẾN VĂN HÓA PHẬT GIÁO TRONG ĐẠO CAO ĐÀI 55 
bài kệ chuông: “Thần chung thanh hướng phóng chung đô/ Địa Tạng khai môn phóng 
xá cô/ Tam kỳ vận chuyển kim quang hiện/ Sám hối âm hồn xuất u đồ” [23]. 
3. NGHI LỄ 
Nghi lễ trong đạo Cao Đài là sự hòa hợp của cả ba tư tưởng: Phật giáo, Đạo giáo, Nho 
giáo. Bắt đầu một buổi lễ thì sau khi bắt ấn tý, thì chủ lễ sẽ đưa tay đưa tay lên trán 
niệm “Nam mô Phật”, đưa tay qua bên trái, niệm “Nam mô pháp”;rồi tiếp tục đưa tay 
qua bên phải, niệm “Nam mô tăng”. Sau đó để tay trước ngực và niệm: “Nam mô Cao 
Đài tiên ông bồ tát ma ha tát./ Nam mô Quán Thế Âm Bồ tát ma ha tát./ Nam mô Lý 
Đại Tiên-Trưởng kiêm Giáo-Tông Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ./ Nam-mô Hiệp-thiên Đại-
Đế Quan-Thánh Đế-Quân./ Nam-mô Chư Phật, Chư Tiên, Chư Thánh, Chư Thần.” 
Các danh niệm: “Nam mô Phật”, “Nam mô pháp”, “Nam mô tăng”, “bồ tát ma ha 
tát”, “Nam mô Quán Thế Âm Bồ tát ma ha tát” và “Nam-mô Chư Phật” đều là các 
danh niệm trong Phật giáo. Phật giáo có ngũ phần hương gồm: giới hương, định hương, 
tuệ hương, giải thoát và giải thoát tri kiến hương, tương đương với năm phần pháp thân 
mà bậc Vô học (để chỉ cho bậc thánh chứng đắc A-la-hán không cần phải học thêm gì 
nữa) thành tựu năm pháp công đức có được [24, tr.3872]. Đạo Cao Đài tiếp biến ngũ 
phần hương của Phật giáo thông qua việc thắp 5 cây hương. Trong cuốn Thiên Đạo của 
Nguyễn Trung Hậu và Phan Trường Mạnh, chương III: Lễ nghi tế tự thuộc phần giáo lý 
có nói như sau: “Luận về phép tu tĩnh, năm cây nhang ấy biểu tượng năm giai đoạn tu 
hành, tùy theo công đức mà nên đạo quả. Năm cây nhang ấy gọi ngũ phần hương là: - 
1). Giới hương, nghĩa là giữ trọn giới cấm cho thân mình trong sạch. -2). Định hương 
nghĩa là thiền định cho tâm thân an tịnh. -3). Huệ hương, nghĩa là thiền định rồi thì 
phát huệ. - 4). Tri kiến hương, nghĩa là phát huệ rồi gia công thêm nữa thì sẽ biết cái 
mầu nhiệm của Tạo Hóa, tức là đắc lục thông. - 5). Giải thoát hương nghĩa là giải thoát 
luân hồi quả báo” [25]. Đối với người chết, trong phần tang lễ đạo Cao Đài cũng có 
nghi lễ cầu siêu giống như tín đồ Phật giáo. 
4. ĐẠO KỲ, CỔ PHÁP VÀ HỆ THỐNG CHỨC SẮC 
4.1. Đạo kỳ 
Theo hiến chương của đạo Cao Đài, thì đạo kỳ (cờ của đạo Cao 
đài) có ba màu là vàng, xanh, đỏ; trong đó màu vàng là màu đại 
diện cho phái Thanh cũng là màu của Phật giáo - một trong ba 
tôn giáo lớn được tiếp nhận hình thành nên đạo Cao Đài. 
4.2. Cổ pháp 
Cổ pháp theo đạo Cao Đài có có hai nghĩa: pháp thuật và bí 
pháp thời xưa của các tôn giáo được sử dụng làm biều tượng 
đại diện thể hiện sự kết hợp của các tôn giáo trong thời kỳ thứ 
ba. Trong Cổ pháp hộ pháp thì có ba vật đó là: bình bát vu; cây 
phất trần và kinh Xuân Thu. Trong đó có bình bát vu là biểu 
tượng của Phật giáo. Về cổ thư thì đạo Cao Đài lấy kinh Pháp Lá cờ đạo Cao Đài 
Bảo Đàn của Lục tổ Huệ Năng (Phật giáo) làm đại diện. (nguồn: 
 sites.google.com) 
56 ĐẶNG VĂN CHƯƠNG, TRẦN THỊ THU HÀ 
4.3. Hệ thống chức sắc của đạo Cao Đài được chia làm hai phần: Hiệp thiên đài và Cửu 
trùng đài. Đối với Cửu trùng đài, có ba phái: Thái, Thượng, Ngọc. Trong đó, chưởng 
pháp của ba phái đại diện cho ba đạo lớn được Cao Đài thiếp nhận. Phái Thái đại diện 
cho Phật giáo, phái Thượng đại diện cho Lão giáo, phái Ngọc đại diện cho Nho giáo. 
5. Y PHỤC 
Y phục của Cao Đài chia theo màu sắc đại diện cho ba tôn giáo lớn được tiếp nhận để 
hình thành nên đạo Cao Đài. Đối với phái Thái (đại diện cho sự tiếp biến đạo Phật) thì 
chia theo từng cấp bậc. Đối với Thái Chưởng giáo ở Cửu trùng đài thứ hai, thì bộ đại 
phục gần giống với y phục của Phật giáo nhất. Với áo trong màu vàng, bên ngoài đắp 
Khậu (hậu), đầu đội mũ Hiệp chưởng, tay cầm bình Bát vu, chân đi giày Vô ưu thêu chữ 
Thích. Ở các Cửu trùng đài sau gồm Thái đầu sư, Thái chánh phối sư, Thái phối sư và 
Thái giáo sư có nhiều thay đổi, tuy nhiên vẫn có áo trong màu vàng và đắp Bá nạp 
quang màu đỏ bên ngoài, không có mũ Hiệp chưởng và bình Bát vu. So sánh với Phật 
giáo, thì áo tràng mặc bên trong của tu sĩ là màu vàng, đắp y hậu và phân chia theo từng 
loại, bậc phức tạp hơn so với đạo Cao Đài. Về y phục của Hộ pháp trong đạo Cao Đài 
gần có nét tương tự với y phục của các tượng Hộ Pháp trong Phật giáo. Trên tay vị Hộ 
Pháp cũng cầm Giáng ma xử giống hình tượng hộ pháp Vi Đà trong Phật giáo. Trên 
Kim khôi (mũ) có 3 ngạnh với ý nghĩa là Chưởng Quản Tam Thiên bên Tây Phương 
Cực Lạc. Còn trên bộ tiểu phục, thì mũ đội có thêu 3 hình cổ pháp. 
 Y Phục Thái Chưởng Pháp Y phục Hòa Thượng Phật giáo 
 Cao Đài (Nguồn daotam.info) (Nguồn chuaxaloi.vn) 
6. KẾT LUẬN 
Có thể nói đạo Cao Đài là sự kế thừa, kết hợp nhuần nhuyển giữa văn hóa Nam Bộ, văn 
hóa dân tộc với văn hóa các tôn giáo trên thế giới đã có mặt và phổ biến ở Nam Bộ vào 
nửa đầu thế kỷ XIX, và đã đáp ứng nhu cầu tâm linh của đông đảo nhân dân. 
Phật giáo Đại Thừa/Phát triển đã được đạo Cao Đài tiếp nhận, biến đổi để góp phần 
hình thành tư tưởng, giới luật, chức sắc, đạo kỳ, cổ pháp, y phục của mình, tạo ra một 
TIẾP BIẾN VĂN HÓA PHẬT GIÁO TRONG ĐẠO CAO ĐÀI 57 
tôn giáo mới có tính tích hợp trong bối cảnh Phật giáo nước nhà đang gặp nhiều khó 
khăn dưới thời Pháp thuộc. Chính việc tiếp biến văn hóa Phật giáo này trong mối quan 
hệ với “tam giáo đồng nguyên” vừa giúp đạo Cao Đài dễ đi vào lòng người, dễ tiếp 
nhận, tạo cơ sở cho sự phát triển lâu dài. 
 TÀI LIỆU THAM KHẢO 
 [1] Thích Minh Thời (2011). Kinh Di Đà, NXB Tôn Giáo, Hà Nội. 
 [2] Các Lời Phê của Đức Hộ Pháp. Sưu tập Du Văn Siêu chỉnh sửa Dã Trung Tử, 
  truy cập 11/10/2020. 
 [3] Di-Lặc Chơn Kinh, Kinh Cứu Khổ, 
 https://tusachcaodai.files.wordpress.com/2012/10/dilacchonkinh_kinhcuukho.pdf, truy 
 cập ngà 10/10/2020, tr.11. 
 [4] Thích Quảng Độ (dịch) (2014). Phật Quang Đại Từ điển (tập 5), NXB Phương Đông, 
 TP Hồ Chí Minh. 
 [5] Thích Quảng Độ (dịch) (2014). Phật Quang Đại Từ điển (tập 5), NXB Phương Đông, 
 TP Hồ Chí Minh. 
 [6] Dã Trung Tử (2003). Thiền định thực hành, Lưu hành nội bộ, 
 https://www.daotam.info/booksv/pdf/pdf2/Thien_Dinh_Thuc_Hanh.pdf, truy cập 
 ngày 10/10/2020, tr.17. 
 [7] Thích Quảng Độ (dịch) (2014). Phật Quang Đại Từ điển (tập 1), NXB Phương Đông, 
 TP Hồ Chí Minh, tr.1195-1196. 
 [8] Dã Trung Tử (2003). Thiền định thực hành, Lưu hành nội bộ, 
 https://www.daotam.info/booksv/pdf/pdf2/Thien_Dinh_Thuc_Hanh.pdf, truy cập 
 ngày 10/10/2020, tr.19. 
 [9] Thích Thanh Từ (2012). Kinh Pháp Bảo Đàn giảng giải, NXB Tôn Giáo , Hà Nội. 
 [10] Dã Trung Tử (2003). Thiền định thực hành, Lưu hành nội bộ, 
 https://www.daotam.info/booksv/pdf/pdf2/Thien_Dinh_Thuc_Hanh.pdf, truy cập 
 ngày 10/10/2020, tr.34. 
 [11] Dã Trung Tử (2003). Thiền định thực hành, Lưu hành nội bộ, 
 https://www.daotam.info/booksv/pdf/pdf2/Thien_Dinh_Thuc_Hanh.pdf, truy cập 
 ngày 10/10/2020, tr.36. 
 [12] Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng, Giới Thiệu Tòa Thánh Tây Ninh, 
  truy cập ngày 
 11/10/2020, tr.81. 
 [13] Di-Lặc Chơn Kinh, Kinh Cứu Khổ, 
 https://tusachcaodai.files.wordpress.com/2012/10/dilacchonkinh_kinhcuukho.pdf, truy 
 cập ngày 10/10/2020, tr.10-13. 
 [14] Thích Quảng Độ (dịch) (2014). Phật Quang Đại Từ Điển (tập 3), NXB Phương Đông, 
 TP Hồ Chí Minh. 
 [15] Liên Thanh, Nhiên Đăng Cổ Phật. Cao Đài - Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, 
 https://sites.google.com/site/thienchaucom/--dhuc-nhien-dhang-co-phat, truy cập ngày 
 09/10/2020. 
 [16] Đức Quán Thế Âm Bồ Tát trong Tam Kỳ Phổ Độ. Tìm Hiểu Đạo Cao Đài, 
  cập 
 ngày 09/10/2020. 
58 ĐẶNG VĂN CHƯƠNG, TRẦN THỊ THU HÀ 
 [17] Siêu tập Thánh giáo đức Quan Thế Âm Bồ tát (bài 1). Nhịp Cầu Giáo Lý. 6 28, 
  truy cập ngày 05/10/2020. 
 [18] Kinh Cầu Siêu. Cao Đài - Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, 
 https://sites.google.com/site/thienchaucom/--kinh-cau-sieu, truy cập ngày 06/10/2020. 
 [19] Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng, Giới Thiệu Tòa Thánh Tây Ninh, 
  truy cập 
 ngày11/10/2020, tr.15. 
 [20] Kinh Cầu Siêu. Cao Đài - Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, 
 https://sites.google.com/site/thienchaucom/--kinh-cau-sieu, truy cập ngày 3/10/2020. 
 [21] HT Thích Trí Tịnh (dịch) (2011). Kinh Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện, NXB Tôn Giáo, 
 Hà Nội, tr.50-51. 
 [22] Kinh Cầu Siêu. Cao Đài - Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, 
 https://sites.google.com/site/thienchaucom/--kinh-cau-sieu, truy cập ngày 3/10/2020. 
 [23] Liên Thanh, Kệ Chuông và Kệ Trống. Cao Đài- Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, 
 https://sites.google.com/site/thienchaucom/--ke-chuong-va-ke-trong, truy cập ngày 
 06/10/2020. 
 [24] Thích Quảng Độ (dịch) (2014). Phật Quang Đại Từ điển (tập 3), NXB Phương Đông, 
 TP Hồ Chí Minh. 
 [25] Thiên Đạo, https://www.daotam.info/booksv/thiendao.htm, truy cập ngày 14/11/2020. 
 [26] Thiên Đạo, https://www.daotam.info/booksv/thiendao.htm, truy cập ngày 14/11/2020. 
Tilte: RECEIVING AND CHANGING OF BUDDHIST CULTURE IN CAO DAI RELIGION 
Abstract: On the basis of the perfect combination between endogenous culture and exogenous 
culture in the South and Vietnam in the first half of the twentieth century, Cao Dai religion was 
born and increasingly developed. The article presents and analyzes the Cao Dai religion that has 
adopted many tangible and intangible cultural elements of Mahayana Buddhism, a religion that 
was widely popular in the South at that time. 
Keywords: Receiving and changing culture, Buddhism, Cao Dai, doctrine, titles of Buddhas, 
Cao Dai Flag, ancient Dhama, robe. 

File đính kèm:

  • pdftiep_bien_van_hoa_phat_giao_trong_dao_cao_dai.pdf