Tiềm năng và giải pháp phát triển du lịch sinh thái miệt vườn ở tỉnh Đồng Tháp
Tóm tắt
Bài viết phân tích tiềm năng, thực trạng du lịch sinh thái miệt vườn ở tỉnh Đồng Tháp. Số liệu
nghiên cứu thu thập từ nguồn thứ cấp và phỏng vấn trực tiếp 105 khách du lịch nội địa. Kết qu
ả nghiên cứu cho thấy, du lịch sinh thái miệt vườn với nhiều loại trái cây đặc sản, hoạt động trải
nghiệm phong phú, gần gũi thiên nhiên, văn hóa địa phương nên có tiềm năng phát triển lớn. Các
yếu tố phát triển du lịch sinh thái miệt vườn được đánh giá gồm cảnh quan, hoạt động du lịch, hạ
tầng kỹ thuật, phương tiện phục vụ, nhân viên, giá cả dịch vụ và an ninh, an toàn của điểm đến.
Dựa trên kết quả nghiên cứu, bài viết đề xuất một số giải pháp góp phần phát triển loại hình du
lịch hấp dẫn này gồm: tăng cường quảng bá, tổ chức các tour du lịch sinh thái miệt vườn, cải tạo
cảnh quan, đa dạng hoạt động du lịch, cải thiện cơ sở hạ tầng, nâng cao chất lượng nguồn nhân
lực, cung cấp dịch vụ du lịch với giá hợp
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Tóm tắt nội dung tài liệu: Tiềm năng và giải pháp phát triển du lịch sinh thái miệt vườn ở tỉnh Đồng Tháp
thực 3,10 0,83 Trung bình Nguồn: Kết quả khảo sát 105 du khách. bốn bánh khó di chuyển, thiếu bãi đỗ và chỗ quay đầu xe. Nhiều điểm du lịch thiếu quan tâm đến việc dọn dẹp nhà vệ sinh lịch sự, sạch sẽ, thiếu thùng chứa rác thải. Một số yếu tố khác như điểm dừng chân nghỉ ngơi, cổng chào, nông cụ, các phương tiện di chuyển, cửa hàng quà lưu niệm hay khu ẩm thực cũng chưa được quan tâm đầu tư đúng mức. Về nhân viên phục vụ: Theo kết quả khảo sát ở Bảng 4, du khách cảm thấy hài lòng với sự thân thiện, chân thành, lịch sự, mến khách của người dân địa phương. Yếu tố này cần tiếp tục duy trì, phát huy để làm hài lòng du khách. Tuy nhiên, do người làm du lịch chủ yếu là nông dân địa phương, chưa được đào tạo về kỹ năng giao tiếp, ứng xử, truyền đạt thông tin nên phục vụ chưa chuyên nghiệp. Bên cạnh đó, kiến thức, sự hiểu biết về các di tích lịch sử, văn hóa địa phương chưa thực sự phong phú để thỏa mãn du khách. Trang phục của nhân viên phục vụ cũng chưa thể hiện được nét riêng của người dân Nam Bộ. Bảng 4. Đánh giá của du khách về nhân viên phục vụ TT Nội dung Điểm trung bình Độ lệch chuẩn Mức độ cảm nhận 1 Người dân thân thiện, lịch sự, mến khách 3,42 0,92 Hài lòng 2 Thái độ, kỹ năng giao tiếp, ứng xử, truyền đạt 2,76 1,04 Trung bình 3 Sự chuyên nghiệp trong cách phục vụ 2,86 0,66 Trung bình 4 Kiến thức, sự hiểu biết về địa phương 3,40 1,08 Trung bình 5 Trang phục của nhân viên 2,77 0,65 Trung bình Nguồn: Kết quả khảo sát 105 du khách. 53 Bảng 5. Đánh giá của du khách về giá cả dịch vụ TT Nội dung Điểm trung bình Độ lệch chuẩn Mức độ cảm nhận 1 Giá vé vào cổng, giữ xe 3,76 0,83 Hài lòng 2 Giá cả dịch vụ ẩm thực 3,44 0,71 Hài lòng 3 Giá trái cây tại vườn 3,53 0,87 Hài lòng 4 Giá cả các hoạt động vui chơi giải trí 3,36 1,10 Trung bình Nguồn: Kết quả khảo sát 105 du khách. Về giá cả dịch vụ: Các điểm DLSTMV là địa chỉ thu hút chủ yếu người dân thành thị với thu nhập tương đối cao. Do đó, họ cảm thấy hài lòng với giá vé vào cổng, giữ xe, giá dịch vụ ẩm thực và các loại trái cây. Điểm trung bình trong đánh giá về giá cả các hoạt động vui chơi giải trí khác cũng khá cao. Để làm hài lòng du khách, các điểm du lịch miệt vườn nên giữ giá tham quan, trải nghiệm hợp lý, không chặt chém du khách vào các dịp lễ hội, chính vụ thu hoạch trái cây và mùa cao điểm du lịch. Bảng 6. Đánh giá của du khách về an ninh, an toàn của điểm đến TT Nội dung Điểm trung bình Độ lệch chuẩn Mức độ cảm nhận 1 Mức độ an toàn của phương tiện di chuyển 2,94 0,77 Trung bình 2 Bán hàng rong, vé số, trộm cắp, ăn xin, chèo kéo 3,26 0,69 Trung bình 3 An toàn vệ sinh thực phẩm 3,36 0,87 Trung bình Nguồn: Kết quả khảo sát 105 du khách. Về vấn đề an ninh, an toàn cho du khách: Bảng 6 cho thấy đánh giá của du khách về vấn đề an ninh, an toàn của điểm đến DLSTMV, tất cả các yếu tố ở mức trung bình. Trong đó, mức độ an toàn của phương tiện di chuyển có điểm trung bình thấp nhất. Như đã phân tích, các điểm DLSTMV nằm ở xa trung tâm đô thị, đường đi cách trở hoặc phải di duyển qua tàu, phà. Tuy nhiên, nhiều bến khách qua sông đang xuống cấp, sạt lở, phương tiện có tải trọng nhỏ, thiếu phao cứu sinh, gây mất an toàn cho du khách. Tại một số điểm đến, tình trạng bán hàng rong, vé số, ăn xin, còn phổ biến. Thêm vào đó, dịch vụ ẩm thực một số nơi chưa đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm, nguồn nguyên liệu chế biến chưa được lựa chọn và kiểm định kỹ. Hiện nay, một số nhà vườn áp dụng quy trình sản xuất trái cây sạch theo tiêu chuẩn VietGap, GlobalGap. Tuy nhiên, phần lớn người dân còn sản xuất theo kiểu truyền thống và lạm dụng phân bón, thuốc bảo vệ thực vật để tăng năng suất. 3.3. Giải pháp góp phần phát triển DLSTMT ở tỉnh Đồng Tháp Dựa trên kết quả đánh giá của du khách, kết hợp với thông tin ghi chép thông qua khảo sát thực địa, bài viết đề xuất 6 nhóm giải pháp phát huy ưu thế, khắc phục những mặt còn hạn chế nhằm nâng cao sự hài lòng của du khách đối với DLSTMV tỉnh Đồng Tháp như sau: Thứ nhất, tăng cường quảng bá, giới thiệu loại hình du lịch hấp dẫn này trên các phương tiện truyền thông, đặc biệt là các trang thông tin du lịch, mạng xã hội, hội chợ xúc tiến du lịch, các ấn phẩm, sách, tạp chí. Thiết kế, đặt các biển quảng cáo, biển chỉ dẫn đến điểm DLSTMV trên các tuyến quốc lộ, ngã ba, ngã tư có đông người, phương tiện qua lại. Thực hiện phóng sự giới thiệu các loại trái cây đặc sản của tỉnh, sản phẩm chế biến từ trái cây và những điểm DLSTMV Tạp chí Khoa học Đại học Đồng Tháp, Tập 9, Số 6, 2020, 46-56 54 Chuyên san Khoa học Xã hội và Nhân văn tiêu biểu. Ngoài ra, cần xác định, lựa chọn những điểm DLSTMV độc đáo để có chính sách hỗ trợ, khuyến khích các công ty du lịch, lữ hành tổ chức, khai thác các tour, tuyến tham quan, trải nghiệm tại các điểm DLSTMV trên địa bàn. Thứ hai, về cảnh quan: Các điểm DLSTMV cần quan tâm cải tạo vườn cây xanh tốt, thoáng mát, sạch sẽ và dọn sạch cỏ dại, trồng nhiều loại cây trái khác nhau, tập trung vào những cây ăn trái có thế mạnh, đặc sản của địa phương. Cần sử dụng các chất liệu sinh thái trong xây dựng như cừ tràm, mây, tre, lá, gốm sứ,... tránh việc “bê tông hóa” quá mức ảnh hưởng đến cảnh quan thiên nhiên, không khí trong lành, thanh bình vốn của làng quê. Các dòng kênh, mương, đường giao thông nông thôn,... cần thoáng đãng, sạch sẽ, không rác thải nhằm tạo thiện cảm đối với khách tham quan và giữ gìn cảnh quan sông nước tươi đẹp, cuốn hút. Bên cạnh đó, tuyên truyền, giáo dục ý thức bảo vệ môi trường cho cho cán bộ, công nhân viên, khách du lịch bằng nhiều hình thức như đặt biển hướng dẫn, bộ quy tắc ứng xử tại điểm tham quan, đặt thêm sọt rác dọc các lối đi và các vị trí thuận tiện khác. Nên có nhân viên dọn vệ sinh, phân loại rác để xử lí. Ngoài ra, cơ quan chức năng ở địa phương cần vận động người dân trồng hoa dọc theo các tuyến đường giao thông tạo cảnh quan thiên nhiên tươi đẹp. Thứ ba, về các hoạt động DLSTMV: Cần phát triển đa dạng các sản phẩm như tát đìa bắt cá, hái rau; thưởng thức đờn ca tài tử, hò Đồng Tháp; quà lưu niệm, quà đặc sản địa phương; hái và thưởng thức trái cây tươi tại vườn; bơi xuồng ngắm cảnh; đạp xe ngắm phong cảnh làng quê; ẩm thực; trò chơi dân gian và các hoạt động vui chơi giải trí khác. Bên cạnh các sản phẩm DLSTMV hiện có, cần đa dạng hóa và liên tục đổi mới để tránh gây nhàm chán cho du khách. Xây dựng các tuyến, điểm DLSTMV kết hợp với du lịch trải nghiệm làng nghề truyền thống, tham quan các di tích lịch sử, văn hóa, lễ hội, du lịch homestay. Đẩy mạnh hình thức du lịch học tập, trải nghiệm nghề làm vườn, cùng sinh hoạt, ăn uống, tham gia lao động, trồng cây, tưới cây, thu hoạch để du khách cảm nhận được sự vất vả, không khí tất bật như những nông dân miệt vườn. Qua đó, du khách hiểu biết thêm về các loại cây ăn trái, bổ sung thêm kiến thức đã học trong sách vở và hiểu biết hơn về văn hóa miền Tây Nam Bộ. Ngoài ra, cần khuyến khích sự tham gia của cộng đồng địa phương vào hoạt động du lịch như cung cấp dịch vụ ăn uống với các món ăn đặc sản địa phương, hướng dẫn du khách tham quan, tìm hiểu, trải nghiệm các nghề thủ công truyền thống, hướng dẫn du khách tự tay làm các sản phẩm theo ý thích, sản xuất và bán quà lưu niệm, cung cấp dịch vụ lưu trú và các hình thức vui chơi giải trí,... Hiện nay, một số chủ vườn còn phát triển mô hình “Cây xoài nhà tôi”, “Cây cam vườn tôi”... Du khách đến tham quan vườn cây ăn trái có cơ hội sở hữu những cây mình yêu thích. Mỗi cây có lí lịch trích ngang gồm các thông tin và hình ảnh về chiều cao, đường kính tán, năm tuổi, năng suất bình quân, chủng loại... Sau khi mua, du khách kí hợp đồng và trở thành chủ sở hữu thực thụ. Trong khoảng thời gian hợp đồng, nguồn lợi thu được sẽ hoàn toàn thuộc về người mua và người bán sẽ chịu trách nhiệm chăm sóc cây đến khi cho trái. Những du khách không có nhiều điều kiện đến thăm vườn thường xuyên, chủ vườn sẽ hỗ trợ bố trí, lắp đặt camera để tiện việc theo dõi sự sinh trưởng và phát triển của cây. Đây cũng là cách làm du lịch mới cần được phát huy. Thứ tư, cần hoàn thiện cơ sở hạ tầng phục vụ sản xuất và du lịch: Do đặc thù các điểm DLSTMV thường cách xa các trục giao thông chính, đường quê nhỏ hẹp, xe bốn bánh khó tiếp cận nên cần chú trọng phát triển hạ tầng giao thông rộng rãi để du khách thuận tiện đi lại. Một số điểm du lịch nằm ở các cù lao trên sông, đò ngang cách trở nên cần đầu tư lại các bến khách qua sông, tàu phà trang bị đầy đủ áo phao, đảm bảo tải trọng cho xe du lịch, lắp đặt thêm các sơ đồ, biển chỉ đường, nhà chờ phà sang sông kết hợp trưng bày, giới thiệu sản vật địa phương và hoạt động du lịch. Điểm DLSTMV cần có nơi đậu xe ô tô, vị trí quay xe; có nhà vệ sinh 55 đầy đủ, sạch sẽ; có điểm dừng chân, ghế ngồi nghỉ ngơi; có cổng chào đẹp, bắt mắt. Đồng thời, trang bị đầy đủ nông cụ hái trái cây, quần áo nhà nông, dụng cụ bắt cá, phương tiện di chuyển như xe đạp, xe đạp đôi, xuồng,... để du khách sử dụng khi có nhu cầu. Các cửa hàng quà lưu niệm, đặc sản và khu dịch vụ ẩm thực xung quanh cần được đầu tư đồng bộ, vừa phải, hài hòa với cảnh quan miệt vườn sông nước và văn hóa, lối sống bình dị của làng quê, kết hợp tiêu thụ tại chỗ hàng nông sản. Thứ năm, về phát triển nguồn nhân lực: Sự thân thiện, chân thành, lịch sự, mến khách của người dân địa phương; kiến thức, sự hiểu biết; thái độ, kỹ năng giao tiếp, ứng xử, truyền đạt thông tin; và sự chuyên nghiệp trong cách phục vụ nên được đề cao. Do đó, cần đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao sự hiểu biết của người dân về lợi ích và trách nhiệm phát triển du lịch, về kiến thức, thái độ, kỹ năng, nghiệp vụ, cách thức giao tiếp, hướng dẫn du khách Cơ quan chức năng cần mở các lớp tập huấn ngắn hạn, học viên là cán bộ phụ trách du lịch của các khu di tích, điểm tham quan du lịch làng nghề, các doanh nghiệp du lịch, lữ hành, cơ sở lưu trú và các điểm DLSTMV trên địa bàn tỉnh. Chương trình đào tạo cần được xây dựng sát với nhu cầu thực tiễn. Thực hiện đào tạo mới, đào tạo lại, mời giảng viên chuyên ngành có uy tín, am hiểu về DLSTMV, văn hóa, lối sống, tiềm năng tự nhiên và điều kiện phát triển du lịch của Đồng Tháp. Các kiến thức, kỹ năng, nghiệp vụ, quy trình phát triển sản phẩm du lịch, xu hướng du lịch, tài liệu, giáo trình phải đơn giản, dễ hiểu để người dân dễ nắm bắt, áp dụng vào thực tế. Bên cạnh đó, cần tổ chức cho cán bộ quản lí và người dân địa phương tham quan, học hỏi kinh nghiệm làm DLSTMV thành công ở trong và ngoài tỉnh. Nhân viên phục vụ cần có trang phục đẹp, phù hợp với lối sống, văn hóa của người dân Đồng Tháp. Thứ sáu, về giá cả dịch vụ và vấn đề an ninh, an toàn cho du khách: Vấn đề vệ sinh an toàn thực phẩm rất quan trọng và cần được quan tâm nhiều hơn. Do vậy, người dân cần tiếp tục đẩy mạnh áp dụng quy trình sản xuất theo tiêu chuẩn xanh, sạch, tiêu chuẩn VietGAP do Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn quy định để sản xuất sản phẩm nông sản an toàn, đảm bảo vệ sinh thực phẩm và bảo vệ môi trường sinh thái. Ngành du lịch cần tiếp tục có nhiều giải pháp bảo vệ an toàn cho du khách tại các điểm đến như trang bị đầy đủ phương tiện bảo hộ, mặc áo phao, đội mũ bảo hiểm... khi tham gia các hoạt động vui chơi. Không để đối tượng ăn xin, bán hàng rong, bán vé số,... làm phiền du khách tham quan, trải nghiệm. Vận động người dân cam kết, không tăng giá dịch vụ vào dịp cao điểm như lễ, tết, thu hoạch trái cây chính vụ... Thực hiện công khai giá vé tham quan, các dịch vụ vui chơi giải trí đi kèm và bán đúng giá niêm yết, không để xảy ra tình trạng chèo kéo, chặt chém du khách. 4. Kết luận Với điều kiện tự nhiên thuận lợi cùng những giá trị nhân văn đặc sắc, DLSTMV ở tỉnh Đồng Tháp có sức hấp dẫn lớn và dần định vị được thương hiệu uy tín. Phát triển các hoạt động DLSTMV sẽ khai thác tốt tài nguyên bản địa. Loại hình du lịch này có vai trò quan trọng không chỉ đối với kinh tế mà còn góp phần giải quyết các vấn đề xã hội, tiêu thụ tại chỗ hàng nông sản, nâng cao hình ảnh và niềm tự hào của người dân địa phương. Bài viết đã phân tích, đánh giá tiềm năng phát triển DLSTMV ở tỉnh Đồng Tháp về sản phẩm, đặc điểm vùng miệt vườn và khả năng khai thác để phát triển du lịch, những thuận lợi và khó khăn trong phát triển DLSTMV. Các kết quả nghiên cứu cho thấy, DLSTMV ở tỉnh Đồng Tháp rất có tiềm năng phát triển, du khách đánh giá khá tốt về các yếu tố cảnh quan, hoạt động du lịch, hạ tầng kỹ thuật, phương tiện phục vụ, nhân viên, giá cả dịch vụ và an ninh, an toàn của điểm đến. Trên cơ sở đó, bài viết đã đề xuất các giải pháp với kỳ vọng tăng cường thu hút, nâng cao sự hài lòng của du khách trong thời gian. Qua đó, đóng góp cho sự phát triển của loại hình du lịch được xem là thế mạnh của vùng ĐBSCL nói chung và tỉnh Đồng Tháp nói riêng./. Tạp chí Khoa học Đại học Đồng Tháp, Tập 9, Số 6, 2020, 46-56 56 Chuyên san Khoa học Xã hội và Nhân văn Tài liệu tham khảo Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Đồng Tháp. (2015). Tài liệu tuyên truyền Đề án phát triển du lịch tỉnh Đồng Tháp giai đoạn 2015-2020. Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch. (2010). Quyết định số 803/QĐ-BVHTTDL ngày 09/3/2010, về việc phê duyệt đề án phát triển du lịch ĐBSCL đến năm 2020. Đoàn Thị Mỹ Hạnh và Bùi Thị Quỳnh Ngọc. (2012). Phát triển du lịch nông thôn ở vùng ĐBSCL: Đường đến cơ cấu kinh tế dịch vụ - nông - công nghiệp. Tạp chí Khoa học Đại học Quốc gia Hà Nội, Kinh tế và Kinh doanh, số 28 (2012), 261-268. Đỗ Thu Nga. (2015). Nghiên cứu phát triển DLSTMV tỉnh Bến Tre. Luận văn Thạc sĩ, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội. Lê Anh. (2016). Phát triển bền vững cây ăn trái vùng ĐBSCL. Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam. Truy cập từ vn/kinh-te/phat-trien-ben-vung-cay-an-trai- vung-dong-bang-song-cuu-long-404218. html. Lê Công Lý. (2015). Tìm hiểu địa văn hóa miệt vườn Nam Bộ. Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 3 (120), 3-13. Nguyễn Trọng Nhân, Trần Thị Hoàng Anh và Nguyễn Thị Diệu Mơ. (2015). Đánh giá của du khách đối với du lịch miệt vườn vùng ĐBSCL. Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ, số 36 (2015), 84-94. Phạm Trung Lương. (2015). Phát triển du lịch sinh thái ở Việt Nam trong bối cảnh biến đổi khí hậu. Tham luận tại Hội thảo Môi trường và phát triển bền vững trong bối cảnh biến đổi khí hậu, Hà Nội. Uỷ ban nhân dân tỉnh Đồng Tháp. (2017). Tài liệu Hội nghị Xúc tiến đầu tư Đồng Tháp, tổ chức ngày 19/12/2017. Uỷ ban nhân dân tỉnh Đồng Tháp. (2019). Quyết định số 347/QÐ-UBND.HC ngày 24/4/2019 về việc phê duyệt các điểm du lịch cộng đồng trên địa bàn tỉnh Đồng Tháp năm 2019. Văn Nữ Quỳnh Trâm. (2015). Văn hóa sông nước của cư dân ĐBSCL. Tạp chí Văn hóa, số 375 tháng 9/2015, 22-27.
File đính kèm:
- tiem_nang_va_giai_phap_phat_trien_du_lich_sinh_thai_miet_vuo.pdf