Thực trạng và kiến nghị sử dụng kết quả kiểm toán nhà nước trong hoạt động giám sát, thẩm tra và phê chuẩn quyết toán ngân sách nhà nước của Quốc hội
Để số liệu quyết toán ngân sách đảm bảo tính trung thực, hợp pháp, đảm bảo tính tuân thủ, tính kinh tế, hiệu quả và hiệu lực thì sau khi cơ quan quản lý ngân sách nhà nước (NSNN) lập Báo cáo phải được cơ quan kiểm tra tài chính độc lập với cơ quan quản lý đánh giá, xác nhận. Cơ quan kiểm tra tài chính độc lập (cơ quan Kiểm toán nhà nước) đưa ra ý kiến một cách khách quan về các khía cạnh quyết toán và khẳng định rằng, Báo cáo quyết toán đảm bảo trung thực về mặt số liệu, đảm bảo tính tuân thủ pháp luật, tính kinh tế, hiệu quả và hiệu lực. Đây là căn cứ quan trọng để Quốc hội, Hội đồng nhân dân sử dụng phục vụ hoạt động giám sát, thẩm tra và phê chuẩn quyết toán ngân sách nhà nước hàng năm
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Tóm tắt nội dung tài liệu: Thực trạng và kiến nghị sử dụng kết quả kiểm toán nhà nước trong hoạt động giám sát, thẩm tra và phê chuẩn quyết toán ngân sách nhà nước của Quốc hội
phương pháp hạch toán, cân đối NSNN theo chuẩn mực và thông lệ quốc tế. b. Nguyên tắc thực hiện Các giải pháp hoàn thiện và nâng cao chất lượng hiệu quả việc sử dụng kết quả kiểm toán của KTNN trong hoạt động giám sát, phê chuẩn quyết toán NSNN hàng năm của Quốc hội cần tôn trọng các nguyên tắc cơ bản sau: Một là, nguyên tắc tuân thủ Tuân thủ thể chế chính trị của Nhà nước Việt Nam, tuân thủ Hiến pháp, pháp luật, cụ thể là tuân thủ quy trình, thủ tục quản lý NSNN, lập và phê chuẩn quyết toán NSNN; tuân thủ Luật lệ của Nhà nước Việt Nam, tuân thủ các chuẩn mực và cam kết quốc tế về kiểm toán trong nước và ngoài nước. Hai là, nguyên tắc phù hợp Hoàn thiện pháp luật phải phù hợp tổ chức quản lý, phân công trách nhiệm trong hệ thống chính trị của Nhà nước Việt Nam; phù hợp năng lực và trình độ quản lý của nhà nước Việt Nam, của Quốc hội và của KTNN; Ba là, nguyên tắc khả thi Các giải pháp phải có tính khả thi trong thực tiễn. Bốn là, nguyên tắc tiết kiệm hiệu quả với chi phí thấp nhất, đem lại hiệu quả cao nhất Ngoài tất cả các yêu cầu trên, các giải pháp hoàn thiện pháp luật cần được xây dựng theo hướng tiết kiệm, hiệu quả nghĩa là chi phí thấp và đem lại kết quả cao nhất. 3. Giải pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả việc sử dụng kết quả kiểm toán của kTNN trong hoạt động giám sát, phê chuẩn quyết toán NSNN của Quốc hội a. Thống nhất nhận thức về giá trị KTNN Nhận thức đúng, đầy đủ về giá trị kết quả KTNN là đánh giá và xác nhận độ tin cậy thông tin chứ không phải là tìm kiếm sai sót từ đó góp phần nâng cao hơn năng lực quản lý, sử dụng tài chính của đơn vị sử dụng NSNN. Nhận thức về giá trị kết quả KTNN trong thảo luận, giám sát và phê chuẩn quyết toán NSNN là căn cứ pháp lý hình thành ý kiến và chính kiến của Quốc hội và của Đại biểu quốc hội. Như vậy, cần nhận thức rằng, KTNN phải phục vụ vô điều kiện cho cơ quan dân cử, đại biểu dân cử, để thực hiện chức năng lập pháp, giám sát tối cao và quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước về NSNN theo hiến định. b. Hoàn thiện các quy định pháp lý về KTNN và quyết toán NSNN Hoàn thiện các quy định pháp lý để thực hiện nhiệm vụ của KTNN trong lập và phê chuẩn quyết toán NSNN theo hướng: Kiến nghị UBTVQH bổ sung nhiệm vụ của KTNN trình ý kiến về dự toán NSNN khi sửa đổi Nghị quyết 387/2003/ NGHIEÂN CÖÙU TRAO ÑOÅI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN72 Số 140 - tháng 6/2019 NQ-UBTVQH11 ban hành Quy chế lập, phê chuẩn, trình Quốc hội quyết định dự toán NSNN, phương án phân bổ ngân sách trung ương và phê chuẩn quyết toán NSNN; Đổi mới quy trình và hệ thống hồ sơ mẫu biểu kiểm toán liên quan đến nhiệm vụ trình ý kiến để Quốc hội xem xét, quyết định dự toán NSNN; hoàn thiện hơn quy trình kiểm toán quyết toán NSNN phù hợp với quy định của Luật KTNN năm 2015, Luật Ngân sách nhà nước 2015. KTNN đẩy nhanh việc ban hành đồng bộ, đầy đủ các văn bản dưới Luật, đề cử mỗi đơn vị kiểm toán có ít nhất một chức danh có thẩm quyền là thành viên ban soạn thảo và phát triển chiến lược kiểm toán. KTNN thường niên tham gia vào việc xây dựng các văn bản pháp luật điều hành tại các cấp chính quyền địa phương có liên quan tới hoạt động kiểm toán, nhằm nâng cao vai trò của KTNN trong cải cách hành chính công. c. Nâng cao chất lượng kiểm toán NSNN của KTNN Trong bối cảnh hiện nay của KTNN, việc áp dụng một số giải pháp sau có thể góp phần quan trọng nâng cao chất lượng kết quả kiểm toán NSNN. Thứ nhất, thay đổi cách thức tiếp cận kiểm toán NSNN theo hướng đạt được mục tiêu kiểm toán xác nhận báo cáo quyết toán Trong kế hoạch trung hạn, KTNN cần quyết tâm đạt mục tiêu kiểm toán tài chính (xác nhận báo cáo quyết toán ngân sách), trên cơ sở hoàn thành mục tiêu kiểm toán tuân thủ và quan tâm đến kiểm toán hoạt động. Để đạt được mục tiêu xác nhận báo cáo quyết toán NSNN nên: i) Tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của Lãnh đạo cơ quan KTNN, từ đó tạo sự đồng thuận, quyết tâm cao thực hiện mục tiêu đánh giá và xác nhận báo cáo tài chính. ii) Xác định rõ mục tiêu xác nhận báo cáo quyết toán ngân sách trong nội dung kế hoạch kiểm toán. KTNN cần thay đổi quan niệm về mục tiêu kiểm toán và nhiệm vụ phải hoàn thành của một cuộc kiểm toán ngân sách. iii) Kế hoạch kiểm toán NSNN cần chú trọng (về thời gian và nhân sự) kiểm toán tại các cơ quan quản lý tổng hợp để xác định trọng yếu kiểm toán và đáp ứng mục tiêu xác nhận số liệu quyết toán. iv) Một yếu tố không thể thiếu đó là trước khi triển khai kiểm toán, các đơn vị cần trang bị kiến thức và kỹ năng cho KTVNN để thực hiện nghiệp vụ xác nhận tính trung thực, hợp lý của số liệu quyết toán của từng cấp ngân sách. Thứ hai, tiếp tục mở rộng quy mô, phạm vi kiểm toán NSNN để thực hiện kiểm toán được nhiều hơn nguồn tài chính công, tài sản công Hằng năm, KTNN chưa thực hiện kiểm toán ngân sách được toàn bộ các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, và tại mỗi địa phương chỉ kiểm toán được một phần nhỏ ngân sách cấp huyện; tỷ lệ số xã được kiểm toán còn ít hơn. Quy mô kiểm toán như vậy ảnh hưởng đến chất lượng thông tin kiểm toán NSNN cung cấp cho Quốc hội do chưa phản ánh được toàn bộ tình hình quản lý, sử dụng NSNN. Chính vì vậy, cùng với nỗ lực đạt mục tiêu xác nhận báo cáo quyết toán NSNN của các đơn vị được kiểm toán thì KTNN cần xây dựng chiến lược và thực thi các giải pháp tích cực phát triển đội ngũ KTVNN đủ về số lượng và cao về trình độ chuyên môn để mở rộng quy mô kiểm toán NSNN hàng năm. Thứ ba, tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin vào hoạt động kiểm toán NSNN. Bên cạnh áp dụng các phương pháp kiểm toán mới, tiên tiến của thế giới, KTNN cần tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong kiểm toán lĩnh vực NSNN để phù hợp với sự thay đổi của môi trường công việc tại các đơn vị được kiểm toán. Nên sớm hoàn thiện hệ thống thông tin điện tử lưu trữ các thông tin cơ bản về đơn vị sử dụng NSNN, tình hình thực hiện kiểm toán các năm trước, các vướng mắc, kiến nghị, đề xuất và kết quả thực hiện kiến nghị đề xuất của KTNN. Thứ tư, từng bước xây dựng các Cẩm nang hoặc Sổ tay hướng dẫn kiểm toán NSNN. Bên cạnh việc xây dựng, ban hành các văn bản hướng dẫn Luật KTNN mới; hoàn chỉnh hệ thống các chuẩn mực, quy trình kiểm toán và cơ chế kiểm soát chất lượng kiểm toán, KTNN cần sớm nghiên cứu xây dựng và ban hành các Cẩm nang hoặc Sổ tay hướng dẫn kiểm toán đối với từng lĩnh vực chủ NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN 73Số 140 - tháng 6/2019 yếu của NSNN: Kiểm toán công tác lập và giao dự toán ngân sách, Kiểm toán thuế, Kiểm toán đầu tư xây dựng cơ bản, Kiểm toán báo cáo quyết toán NSNN... Cẩm nang hoặc Sổ tay kiểm toán được xây dựng trở thành tài liệu tốt hướng dẫn thực hành kiểm toán cho KTV nhà nước, góp phần nâng cao trình độ chuyên môn, tính chuyên nghiệp và chuẩn mực trong xử lý nghiệp vụ cũng như đưa ra các kết luận, kiến nghị chính xác, đầy đủ, có tính khả thi, phù hợp đối với đơn vị được kiểm toán. Chất lượng thông tin kiểm toán vì thế dần được nâng cao. d. Đa dạng hóa phương thức và hình thức cung cấp ý kiến của Kiểm toán nhà nước cho Quốc hội Ngoài đáp ứng yêu cầu chính xác, trung thực, khách quan, thông tin kiểm toán cần được cung cấp một cách kịp thời, đầy đủ và có tính hệ thống cho Quốc hội. Tính dễ tiếp cận để khai thác, sử dụng cũng phải được đề cao. Bên cạnh báo cáo kiểm toán toàn văn, KTNN nên có báo cáo kiểm toán tóm tắt và bản trình bày về những điểm quan trọng mà KTNN phát hiện trong quá trình kiểm toán cùng với các kết luận, kiến nghị kiểm toán. Hình thức cung cấp thông tin kiểm toán, cũng cần được đa dạng và phù hợp với điều kiện thực tiễn. Trong bối cảnh hiện nay nên tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin để truyền tải các kết quả kiểm toán. Cùng với các hình thức cung cấp thông tin kiểm toán đang áp dụng, KTNN có thể nghiên cứu để vận dụng hình thức gửi thông tin kiểm toán cho các đại biểu Quốc hội qua hòm thư điện tử để các cơ quan giúp việc cho Quốc hội, các đại biểu Quốc hội thuận tiện trong việc khai thác, sử dụng. e. Nâng cao chất lượng và giá trị thông tin của KTNN cung cấp cho Quốc hội Một là, đẩy mạnh hoạt động cung cấp thông tin của KTNN cho Quốc hội. Để việc cung cấp thông tin của KTNN cho Quốc hội sát thực hơn với tình hình hoạt động của NSNN, KTNN cần phối hợp chặt chẽ với Ủy ban TCNS và các Ủy ban khác của Quốc hội trong hoạt động giám sát, thẩm tra và phê chuẩn quyết toán NSNN và các vấn đề có liên quan đến tài chính - ngân sách của Quốc hội. KTNN cần được mời tham gia các phiên họp toàn thể của Ủy ban TCNS, tham gia các phiên họp toàn thể của Quốc hội và các Ủy ban khác đối với các vấn đề có liên quan đến tài chính - ngân sách. KTNN sẽ có ý kiến về mặt chuyên môn với tư cách là cơ quan kiểm tra tài chính công cao nhất về các vấn đề được bàn thảo trước Ủy ban Thường vụ Quốc hội và các cơ quan của Quốc hội. Các cuộc giám sát của Quốc hội, KTNN có thể cử cán bộ, Kiểm toán viên tham gia các đoàn giám sát theo yêu cầu của Quốc hội; thực hiện cơ chế thảo luận về kết quả kiểm toán đối với các bộ, ngành, địa phương trong hội đồng dân tộc, các Ủy ban khác của Quốc hội với sự tham gia của đại diện Bộ Tài chính, KTNN và lãnh đạo đơn vị được kiểm toán trước khi phê chuẩn quyết toán NSNN. KTNN và Ủy ban TCNS tiếp tục nghiên cứu để sửa đổi, bổ sung quy chế phối hợp giữa hai cơ quan phù hợp với Luật KTNN và các văn bản pháp luật có liên quan. Một số nội dung bổ sung hoàn thiện như: - Bổ sung phạm vi phối hợp phù hợp quy định tại Khoản 9, Điều 10 Luật KTNN “Giải trình về kết quả kiểm toán với Quốc hội và các cơ quan của Quốc hội theo quy định của pháp luật”. - Thúc đẩy sớm thời gian Ủy ban TCNS cung cấp cho KTNN dự kiến chương trình, kế hoạch giám sát của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Ủy ban TCNS về lĩnh vực tài chính ngân sách có liên quan đến lập kế hoạch kiểm toán năm, những vấn đề cần chú trọng trong Kế hoạch kiểm toán năm. - Chuẩn hóa các nội dung phối hợp phù hợp với nhiệm vụ, quyền hạn của KTNN theo quy định của Luật KTNN. Thứ hai, tiếp tục đổi mới nội dung thông tin kiểm toán cung cấp cho Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Cơ chế cung cấp thông tin của KTNN cho Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội có những điểm, những nội dung và yêu cầu khác với cơ chế thông tin của KTNN cho Hội đồng Dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội. Trong các phiên họp toàn thể của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, chương trình nghị sự thường rất kín với một khối lượng công việc lớn nên các thông tin KTNN cung cấp nhằm phục vụ cho Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội thường phải chọn lọc với những thông tin thật cần thiết, liên quan đến những vấn đề lớn NGHIEÂN CÖÙU TRAO ÑOÅI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN74 Số 140 - tháng 6/2019 về kinh tế, tài chính của Quốc gia, chẳng hạn như thông tin liên quan đến kinh tế vĩ mô, chính sách tài khoá, chính sách tiền tệ... Ngoài báo cáo tóm tắt kết quả kiểm toán năm, báo cáo kết quả kiểm toán năm, báo cáo kết quả kiểm toán quyết toán NSNN, KTNN còn cần cung cấp các thông tin về kết quả kiểm toán chuyên đề cho Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, thậm chí có những báo cáo giải trình cụ thể về một vấn đề, lĩnh vực cụ thể để Quốc hội có góc nhìn da dạng, nhiều chiều trước khi đưa ra quyết định. f. Quốc hội tăng cường cung cấp thông tin cho KTNN để có căn cứ xây dựng kế hoạch kiểm toán, tổ chức hoạt động kiểm toán phù hợp Để nâng cao tính hữu ích của thông tin kiểm toán, các cơ quan của Quốc hội, các đại biểu Quốc hội cần cung cấp thông tin để giúp KTNN xây dựng kế hoạch kiểm toán và bố trí nguồn lực thực hiện kiểm toán. Nguồn thông tin mà KTNN tiếp nhận từ phía Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội có thể gồm một số loại thông tin cơ bản sau đây: - Các thông tin về kết quả giám sát hoạt động kinh tế, tài chính của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, của các cơ quan của Quốc hội. - Các yêu cầu, định hướng giám sát hay các định hướng phát triển kinh tế - xã hội, các thông tin về quản lý tài chính - ngân sách mà Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội có được trong hoạt động của mình. - Các vấn đề quan trọng, nổi cộm về NSNN mà Quốc hội, công chúng đang quan tâm. Các thông tin trên cần được cung cấp cho KTNN để KTNN đề ra định hướng, mục tiêu, nội dung kiểm toán nhằm đáp ứng tốt nhất các yêu cầu của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội. Đảm bảo việc kiểm toán đi vào trọng tâm, trọng điểm, cung cấp thông tin một cách thiết thực hiệu quả, tránh việc nguồn thông tin cung cấp cho Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội dàn trải. g. Hình thành bộ phận kiểm toán tại Quốc hội làm nhiệm vụ chuyên trách phân tích, đánh giá và định hướng sử dụng kết quả kiểm toán của KTNN. Kết quả kiểm toán của KTNN là những vấn đề rất phức tạp, đòi hỏi phải có một kiến thức cơ bản về tài chính - ngân sách và các luật liên quan để có thể có cái nhìn đúng đắn, khách quan về các kết luận KTNN đưa ra. Vì trong số đó sẽ có một số kiến nghị chưa đủ thuyết phục, chính là nguyên nhân làm cho các đơn vị được kiểm toán chưa thực hiện. Do vậy, đối với Quốc hội và ĐBQH cần thiết phải có một bộ phận hỗ trợ trong việc phân tích, đánh giá và định hướng sử dụng các kết quả kiểm toán của KTNN. Do vậy, trong quá trình làm việc, Tiểu ban này sẽ phải theo dõi các báo cáo kết quả Kiểm toán nhà nước gửi sang, theo dõi tình hình thực hiện kết quả kiểm toán và làm đầu mối làm việc với KTNN. Đây có thể coi là bộ phận chuyên trách làm đầu mối tiếp nhận, xử lý các thông tin do KTNN cung cấp. Các thành viên trong Tiểu ban này yêu cầu phải có kiến thức chuyên sâu về tài chính - ngân sách và các lĩnh vực khác để có thể đọc, phân tích được các kết luận, kiến nghị của KTNN đưa ra, đánh giá được sự hạn chế trong các kết quả đó, để từ đó đề xuất với Quốc hội, ĐBQH những vấn đề tồn đọng liên quan đến tài chính ngân sách. Nhằm cung cấp cho ĐBQH những thông tin đầy đủ, chính xác, khách quan về kết quả đạt được về hạn chế, tồn tại về cả mặt cơ chế chính sách và cả những vi phạm của các đơn vị được kiểm toán, từ đó sẽ đề ra được các giải pháp, xử lý. i.Tổng Kiểm toán nhà nước cần có vị trí trong phiên thảo luận và báo cáo quyết toán ngân sách của Quốc hội Để kết quả triển khai thực sự có giá trị và được sử dụng khi Quốc hội tiến hành hoạt động giám sát, thảo luận về quyết toán NSNN. Tổng KTNN cần hiện diện và có vị trí ngồi độc lập tại các phiên họp của Quốc hội. Nhiệm vụ của Tổng KTNN là: + Công bố ý kiến chính thức của KTNN về các vấn đề có liên quan đến NSNN nói chung và quyết toán NSNN nói riêng; + Làm rõ thêm các ý kiến của KTNN khi các ĐBQH yêu cầu; + Giải đáp các thắc mắc, các câu hỏi của ĐBQH liên quan đến thông tin, các số liệu của báo cáo quyết toán và ý kiến của KTNN. Ngày nhận bài: 14/5/2019 Ngày duyệt đăng: 3/6/2019
File đính kèm:
- thuc_trang_va_kien_nghi_su_dung_ket_qua_kiem_toan_nha_nuoc_t.pdf