Nghiên cứu áp dụng mô hình giá trị hợp lý trong kế toán tài sản cố định tại các doanh nghiệp khai thác khoáng sản ở Việt Nam

TÓM TẮT

Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, mục tiêu của thông tin kế toán

được chuyển dịch theo hướng đáp ứng nhu cầu ra quyết định của các chủ thể có

lợi ích liên quan. Đây chính là cơ sở cho sự phát triển của các lý thuyết kế toán

mới, đặc biệt là sự thay đổi, phát triển trong việc sử dụng các cơ sở đo lường

trong đó có mô hình giá trị hợp lý. Trong giai đoạn hiện nay, mặc dù còn khá

nhiều tranh luận, song việc Hội đồng chuẩn mực kế toán quốc tế (IASB) ban hành

riêng một chuẩn mực báo cáo tài chính về đo lường giá trị hợp lý (IFRS 13) nhằm

thống nhất về việc xác định và đo lường giá trị hợp lý trong các chuẩn mực, cho

thấy giá trị hợp lý đã thực sự trở thành một xu hướng trong xây dựng khuôn khổ

qui định về kế toán. Thông qua phương pháp điều tra quan sát bằng bảng hỏi và

phỏng vấn sâu các chuyên gia để thu thập dữ liệu sơ cấp bài viết đã nghiên cứu

khả năng áp dụng mô hình giá trị hợp lý trong kế toán tài sản cố định tại các

doanh nghiệp khai thác khoáng sản ở Việt Nam. Kết quả cho thấy, đa phần các

doanh nghiệp khai thác khoáng sản và các đối tượng có liên quan (ngân hàng,

kiểm toán ) được khảo sát đều nhận thức được tầm quan trọng của mô hình

giá trị hợp lý và sẵn sàng thực hiện đo lường kế toán tài sản cố định theo mô hình

giá trị hợp lý nếu Bộ Tài chính ban hành các văn bản hướng dẫn cụ thể.

Nghiên cứu áp dụng mô hình giá trị hợp lý trong kế toán tài sản cố định tại các doanh nghiệp khai thác khoáng sản ở Việt Nam trang 1

Trang 1

Nghiên cứu áp dụng mô hình giá trị hợp lý trong kế toán tài sản cố định tại các doanh nghiệp khai thác khoáng sản ở Việt Nam trang 2

Trang 2

Nghiên cứu áp dụng mô hình giá trị hợp lý trong kế toán tài sản cố định tại các doanh nghiệp khai thác khoáng sản ở Việt Nam trang 3

Trang 3

Nghiên cứu áp dụng mô hình giá trị hợp lý trong kế toán tài sản cố định tại các doanh nghiệp khai thác khoáng sản ở Việt Nam trang 4

Trang 4

Nghiên cứu áp dụng mô hình giá trị hợp lý trong kế toán tài sản cố định tại các doanh nghiệp khai thác khoáng sản ở Việt Nam trang 5

Trang 5

Nghiên cứu áp dụng mô hình giá trị hợp lý trong kế toán tài sản cố định tại các doanh nghiệp khai thác khoáng sản ở Việt Nam trang 6

Trang 6

pdf 6 trang xuanhieu 7460
Bạn đang xem tài liệu "Nghiên cứu áp dụng mô hình giá trị hợp lý trong kế toán tài sản cố định tại các doanh nghiệp khai thác khoáng sản ở Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Nghiên cứu áp dụng mô hình giá trị hợp lý trong kế toán tài sản cố định tại các doanh nghiệp khai thác khoáng sản ở Việt Nam

Nghiên cứu áp dụng mô hình giá trị hợp lý trong kế toán tài sản cố định tại các doanh nghiệp khai thác khoáng sản ở Việt Nam
ảo sát đã chọn mức Đồng ý để trả lời 
câu hỏi khảo sát “Ông/bà đồng ý thực hiện kế toán suy 
giảm giá trị TSCĐ theo mô hình GTHL không?”. Tỷ lệ Không 
đồng ý chiếm 21,4%. Còn lại là tỷ lệ 19,6% Không có ý kiến. 
Như vậy, theo kết quả khảo sát số người đồng ý thực hiện 
kế toán suy giảm giá trị TSCĐ theo mô hình GTHL chiếm tỷ 
lệ cao, số người không đồng ý chiếm tỷ trọng thấp hơn 
nhiều. Đây có thể coi là một tín hiệu tốt về khả năng áp 
dụng mô hình định giá TSCĐ theo GTHL vào chính sách kế 
toán ở Việt Nam sẽ được sự đồng thuận từ phía những 
người liên quan tới quá trình lập BCTC tại doanh nghiệp. 
 XÃ HỘI 
 Tạp chí KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ ● Tập 56 - Số4 (8/2020) Website: https://tapchikhcn.haui.edu.vn 136
KINH TẾ P-ISSN 1859-3585 E-ISSN 2615-9619 
Đối với số người đồng ý thực hiện chế độ kế toán TSCĐ 
theo GTHL, nhóm tác giả nhận thấy, trình độ học vấn và 
mức độ hiểu biết về kế toán suy giảm giá trị tài sản và mô 
hình đo lường theo GTHL ảnh hưởng tới sự đồng ý thực 
hiện. Trong tổng số 33 người trả lời Đồng ý chỉ có 2 người 
có trình độ Cao đẳng, 7 người trình độ Đại học và 24 người 
trình độ sau đại học. Kết quả này có thể giải thích, càng 
những người có trình độ cao càng nhận thấy tầm quan 
trọng của GTHL trong kế toán TSCĐ, sẽ sẵn sàng tiếp thu 
kiến thức mới, không ngại học hỏi để thực hiện nghiệp vụ 
kế toán mới. Trong số 9 người trình độ cao đẳng và đại học 
trả lời đồng ý thì có 6 người đã từng tham gia các khoa học 
tại nước ngoài hoặc các chương trình liên kết với nước 
ngoài. Điều đó thể hiện, trình độ ngoại ngữ cũng là một 
yếu tố ảnh hưởng tới sự sẵn sàng hội nhập và cập nhật 
chuẩn mực kế toán quốc tế. Tuy nhiên, trong số những 
người đồng ý thực hiện GTHL trong kế toán suy giảm giá trị 
TSCĐ khi được hỏi “Việt Nam cần thiết bắt buộc quy định 
DN phải công bố thông tin về sự suy giảm giá trị của TSCĐ” 
chỉ có 19/33 người (chiếm 57,58%) đồng ý, số còn lại không 
có ý kiến hoặc không đồng ý vì cho rằng trước mắt chỉ cần 
khuyến khích các DN thực hiện và trình bày thông tin kế 
toán suy giảm giá trị TSCĐ khi có dấu hiệu (hình 3). 
Nguồn: Tổng hợp kết quả khảo sát của tác giả 
Hình 3. Tổng hợp kết quả khảo sát về yêu cầu công bố thông tin suy giảm giá 
trị TSCĐ theo mô hình GTHL 
Về mức độ hiểu biết của người được phỏng vấn đối với 
kiến thức về mô hình định giá TSCĐ theo GTHL trước khi trả 
lời phiếu khảo sát, nhóm tác giả đã đưa ra 3 phương án trả 
lời trong phiếu khảo sát là Hiểu rõ, Biết nhưng chưa hiểu rõ, 
Chưa biết. Trong 33 người đồng ý có 12 người hiểu rõ, 18 
người có biết chuẩn mực kế toán giảm giá trị tài sản nhưng 
chưa hiểu rõ, 3 người chưa biết kế toán giảm giá trị tài sản - 
lần đầu tiên biết đến kế toán giảm giá trị tài sản là theo tài 
liệu vắn tắt tác giả gửi kèm phiếu khảo sát. Số 12 người trả 
lời là hiểu rõ có đặc điểm là đã được dự ít nhất một lần khóa 
đào tạo chuẩn mực kế toán giảm giá trị tài sản và đa số có 
khả năng đọc Chuẩn mực bằng tiếng Anh do đã có bằng 
tốt nghiệp đại học hoặc Sau đại học sử dụng tiếng Anh. 
Trong số 18 người trả lời là biết nhưng chưa hiểu rõ có 12 
người đã tham gia ít nhất một lần khóa đào tạo chuẩn mực 
kế toán quốc tế giảm giá trị tài sản. Do chuẩn mực kế toán 
giảm giá trị tài sản là một chuẩn mực phức tạp, mang nặng 
tính ước tính nên việc hiểu rõ chuẩn mực cần có sự nghiên 
cứu sâu sắc. Nhưng những người đã được giới thiệu về 
chuẩn mực cũng đã nhận thức được tầm quan trọng của 
chuẩn mực nên vẫn đồng ý thực hiện. 
Tổng số người trả lời Không đồng ý là 12 người, chiếm 
tỷ lệ 21,4% tổng số người trả lời phiếu khảo sát. Trong số 12 
người không đồng ý có 4 người trả lời hiểu rõ GTHL nhưng 
lý do đưa ra không đồng ý thực hiện kế toán TSCĐ theo mô 
hình này là: (1) Khó thực hiện; (2) Chưa có chuẩn mực và 
hướng dẫn cụ thể về suy giảm giá trị tài sản; (3) Ảnh hưởng 
xấu đến tình hình tài chính của DN. Theo nhóm tác giả, các 
lý do không đồng ý đưa ra ở đây hoàn toàn xác đáng. Các 
nghiên cứu trên thế giới cũng chỉ ra kế toán nghiệp vụ 
giảm giá trị tài sản là nghiệp vụ khó, mang nặng tính phán 
xét, ước tính chủ quan, nên quá trình xác định giảm giá trị 
tài sản khó có thể đi đến sự thống nhất giữa các đối tượng 
khác nhau. Trong điều kiện kinh tế khó khăn, nghiệp vụ kế 
toán giảm giá trị tài sản có thể làm cho kết quả kinh doanh 
của DN giảm xuống đáng kể khi DN có giá trị tài sản bị ghi 
giảm là tương đối lớn. Tuy nhiên, theo nhóm tác giả người 
trả lời không đồng ý thực hiện do ảnh hưởng đến tình hình 
tài chính của DN đã không cân nhắc đến các kỳ kế toán sau 
khi ghi nhận giảm giá trị tài sản sẽ có hiệu ứng ngược lại 
đối với tình hình tài chính của DN. Do tài sản đã được ghi 
giảm giá trị nên các kỳ kế toán sau DN sẽ được giảm chi phí 
khấu hao, lợi nhuận của DN sẽ được cải thiện. Có 2/12 
người không đồng ý vì chưa biết về GTHL trước khi trả lời 
phiếu khảo sát, 3 người biết nhưng chưa hiểu rõ về mô 
hình định giá này. Lý do của 5 người chưa biết hoặc biết 
nhưng chưa hiểu rõ kế toán TSCĐ theo GTHL không đồng ý 
thực hiện tập trung vào 3 trường hợp: (1) Khó thực hiện; 
(2) Không có hệ thống định giá tin cậy; (3) Không đồng ý 
nhưng không nêu lý do vì sao. Ngoài ra, nhóm tác giả 
phỏng vấn sâu thêm 6 kế toán trưởng các DN, trong đó có 
2 kế toán trưởng của DN vừa và nhỏ, 4 kế toán trưởng DN 
lớn để tìm hiểu băn khoăn của DN nếu thực hiện kế toán 
giảm giá trị TSCĐ tại Việt Nam. Hai kế toán trưởng DN vừa 
và nhỏ tỏ ra rất băn khoăn vì nghiệp vụ quá phức tạp, nếu 
bắt buộc phải thực hiện thì rất khó cho DN. Các kế toán 
trưởng các DN lớn có mức độ đồng ý cao hơn nhưng yêu 
cầu phải có sự hướng dẫn chi tiết. 
 Nguồn: Tổng hợp kết quả khảo sát của tác giả 
Hình 4. Tổng hợp kết quả khảo sát trình độ và mức độ hiểu biết về kế toán 
giảm giá trị tài sản theo mô hình GTHL của các đối tượng trả lời 
P-ISSN 1859-3585 E-ISSN 2615-9619 ECONOMICS - SOCIETY 
Website: https://tapchikhcn.haui.edu.vn Vol. 56 - No. 4 (Aug 2020) ● Journal of SCIENCE & TECHNOLOGY 137
 Kết quả phỏng vấn sâu chuyên viên tín dụng của 
các ngân hàng thương mại 
Để được vay vốn ngân hàng hoặc các tổ chức tín dụng, 
DN phải chứng minh được năng lực tài chính có khả năng 
thanh toán các khoản vay khi đến hạn và đảm bảo cho các 
khoản vay. Vì vậy ngân hàng hoặc các tổ chức tín dụng còn 
quan tâm đến TSCĐ thuộc sở hữu của DN để đảm bảo cho 
các khoản vay, các giấy tờ chứng minh quyền sở hữu TSCĐ 
của DN như giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy phép 
đăng ký xe ô tô, Mục tiêu của các bên cho vay khi sử 
dụng thông tin kế toán phải là các yếu tố đảm bảo cho các 
khoản cho vay như: Giá thị trường của các tài sản đảm bảo, 
các nguồn lực hiện tại của DN, lợi nhuận trong tương lai, dự 
đoán dòng tiền tương lai. Chính vì vậy, thông tin về TSCĐ 
do kế toán cung cấp là thông tin vô cùng hữu ích đối với 
các bên cho vay. Nhóm tác giả đã tiến hành khảo sát bằng 
hình thức phỏng vấn 5 chuyên viên tín dụng của 2 ngân 
hàng thương mại cổ phần là Ngân hàng thương mại cô ̉ 
phần Đầu tư phát triển Việt Nam (BIDV) và Ngân hàng 
thương mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam 
(Vietcombank). Các cuộc phỏng vấn trực tiếp cũng được 
thực hiện sau khi tác giả đã gửi tài liệu giới thiệu vắn tắt về 
kế toán TSCĐ theo GTHL. Khi gặp mặt, trước khi đi vào nội 
dung chính của các câu hỏi đặt ra, nhóm tác giả và người 
trả lời cũng giành ít phút để trao đổi lại, nhóm tác giả trả lời 
những băn khoăn của người trả lời về một số vấn đề có liên 
quan đến kiến thức kế toán định giá TSCĐ theo GTHL. Các 
chuyên viên tín dụng đều bày tỏ quan điểm rất đồng tình 
với chủ trương thực hiện mô hình GTHL đặc biệt khi có sự 
suy giảm giá trị tài sản tại DN mà nhóm tác giả đã giới 
thiệu. Có 5 người trả lời Đồng ý thực hiện kế toán giảm giá 
trị tài sản theo GTHL tại DN. Lý do chính cho câu trả lời 
đồng ý là: DN càng thận trọng trong nghiệp vụ kế toán, 
càng giảm rủi ro cho ngân hàng, vì Báo cáo tài chính DN 
cung cấp là căn cứ quan trọng để ngân hàng thẩm định 
khả năng tài chính của DN và quyết định cho vay. Ý kiến về 
trường hợp cho vay đầu tư TSCĐ hữu hình thế chấp bằng 
chính tài sản đó, các chuyên gia bày tỏ quan điểm việc thực 
hiện kế toán giảm giá trị tài sản theo GTHL sẽ không những 
hỗ trợ ngân hàng trong khâu thẩm định hiệu quả dự án 
đầu tư khi quyết định cho vay mà còn giúp DN luôn tìm 
mọi cách khai thác sử dụng một cách tốt nhất, có kế hoạch 
sử dụng cho tương lai, nâng cao khả năng thu hồi vốn của 
ngân hàng từ dự án đầu tư. Trước câu hỏi của nhóm tác giả 
về ông/bà có băn khoăn gì về việc thực hiện kế toán giảm 
giá trị tài sản tại DN, có 4 người trả lời là bước đầu sẽ rất khó 
khăn vì vậy Bộ Tài chính cần ban hành các văn bản hướng 
dẫn cụ thể. 
 Kết quả phỏng vấn sâu kiểm toán viên, chuyên gia 
Bộ Tài chính 
Nhóm tác giả còn tiến hành phỏng vấn 3 kiểm toán viên 
là những người đã kiểm toán tại các DN khai thác khoáng 
sản, họ đều cho rằng cần thiết thực hiện kế toán suy giảm 
giá trị của TSCĐ theo GTHL tại Việt Nam nói chung và tại 
các DN khai thác khoáng sản nói riêng. Các lý do mà họ cho 
rằng cần thiết đó là: thực hiện kế toán suy giảm giá trị của 
TSCĐ để các chỉ tiêu trên BCTC được phản ánh hợp lý, trung 
thực; cần quy định thực hiện kế toán suy giảm giá trị của 
TSCĐ để kiểm toán viên có cơ hội xác minh và bày tỏ ý kiến, 
đối với một số DN đây có thể là thông tin rất trọng yếu, ảnh 
hưởng lớn tới tình hình tài sản, kết quả sản xuất kinh doanh 
của DN. Tuy nhiên, phần lớn các kiểm toán viên đều lo lắng 
về khả năng áp dụng do GTHL của TSCĐ phụ thuộc nhiều 
vào sự xét đoán, ước tính của nhà quản lý và người lập 
BCTC đối với các sự kiện không chắc chắn sẽ xảy ra trong 
tương lai. 
Các cơ quan quản lý nhà nước luôn quan tâm tới tình 
hình sử dụng và lợi ích mà TSCĐ đem lại để đánh giá hiệu 
quả đầu tư TSCĐ, nhất là đối với DN có tỷ trọng TSCĐ tương 
đối lớn trong tổng giá trị tài sản của DN như DN khai thác 
khoáng sản. Như vậy, thông tin do kế toán TSCĐ cung cấp 
góp phần giúp các cơ quan quản lý nhà nước ra quyết định 
và hoạch định các chính sách kinh tế phù hợp nhằm thúc 
đẩy nền kinh tế phát triển. Vì vậy, nhóm tác giả cũng phỏng 
vấn 2 chuyên viên của Bộ Tài chính đều cho rằng cần thiết 
phải thực hiện chuẩn mực kế toán suy giảm giá trị tài sản để 
hoàn thiện khung pháp lý, hòa nhập với thông lệ quốc tế về 
ghi nhận, đo lường và báo cáo các chỉ tiêu trên BCTC. Về rào 
cản thực hiện tại các DN khai thác khoảng sản khu vực phía 
Bắc, đối với một chuẩn mực phức tạp, nội dung đa dạng nên 
Bộ Tài chính chỉ đưa ra hướng dẫn chung, không thể có 
hướng dẫn cụ thể, chi tiết cho từng trường hợp cụ thể, do đó 
khi thực hiện sẽ gặp nhiều khó khăn. Hơn nữa, trình độ kế 
toán viên của phần lớn các DN đều chưa cao nên khi thực 
hiện nghiệp vụ phức tạp khó tránh khỏi sai sót. 
Như vậy, qua kết quả khảo sát và phỏng vấn sâu cho 
thấy giá trị hợp lý là một cơ sở định giá có những ưu điểm 
khá rõ ràng với các cơ sở định giá khác và được đa phần 
các đối tượng quan tâm sẵn sàng áp dụng trong kế toán 
TSCĐ nhằm góp phần làm cho thông tin tài chính thích 
hợp hơn với nhu cầu sử dụng thông tin trong điều kiện 
nền kinh tế thị trường phát triển. Tuy nhiên, khi doanh 
nghiệp không có ý định bán, thanh toán trong ngắn hạn 
hoặc trong điều kiện không có thị trường hoạt động hiệu 
quả cho tài sản và nợ phải trả (như ở các nước đang hình 
thành và phát triển nền kinh tế thị trường) thì mô hình 
này cũng bộc lộ một số hạn chế. Vì vậy, theo nhóm tác giả 
việc sử dụng giá trị hợp lý trong kế toán TSCĐ tại các DN 
khai thác khoáng sản là một bước đi cần thiết trước sự 
phát triển nhanh chóng của nền kinh tế thị trường, sự 
phức tạp của các quan hệ đầu tư, tài chính và nhu cầu sử 
dụng thông tin tài chính. Tuy nhiên, trước mắt các DN 
khai thác khoáng sản ở Việt Nam không nên sử dụng giá 
trị hợp lý là một cơ sở định giá duy nhất cho mọi tài sản và 
nợ phải trả mà nên kết hợp duy trì với mô hình giá gốc. 
Trong đó, giá trị hợp lý được khuyến khích áp dụng trong 
những điều kiện tồn tại thị trường hoạt động cho tài sản 
hoặc nợ phải trả hoàn toàn giống về bản chất hoặc tương 
tự có thể so sánh. Đó là những trường hợp mà giá trị hợp 
lý được xác định một cách đáng tin cậy, đảm bảo được sự 
cân bằng hợp lý giữa yêu cầu (đáng tin cậy) và (thích hợp) 
của thông tin tài chính. 
 XÃ HỘI 
 Tạp chí KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ ● Tập 56 - Số4 (8/2020) Website: https://tapchikhcn.haui.edu.vn 138
KINH TẾ P-ISSN 1859-3585 E-ISSN 2615-9619 
5. KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ 
Trong giai đoạn toàn cầu hoá mạnh mẽ như hiện nay, 
nền kinh tế Việt Nam nói chung các DN Việt Nam nói riêng 
sẽ được hưởng lợi thông qua áp dụng IFRS. Để có thể tiếp 
cận với nguồn vốn nước ngoài thì việc lập Báo cáo tài chính 
theo IFRS là một yêu cầu gần như bắt buộc. IFRS là hệ 
thống chuẩn mực kế toán dựa trên GTHL nên việc áp dụng 
GTHL trong kế toán là xu thế tất yếu trong đo lường nhưng 
cũng là rào cản, thách thức lớn trong tiến trình hội nhập và 
triển khai IFRS tại Việt Nam. Muốn thực hiện được điều này 
một mặt, Bộ Tài chính cần sớm ban hành khung pháp lý 
cho việc xác định, trình bày và hạch toán theo GTHL. Bên 
cạnh đó, Bộ Tài chính cũng cần có sự phối hợp với các Công 
ty kiểm toán (đặc biệt là các công ty thuộc Big Four), các 
Hội nghề nghiệp trong nước và quốc tế, các nhà khoa học 
là giảng viên các trường đại học trong tuyên truyền, vận 
động, hướng dẫn các doanh nghiệp thực hiện đo lường kế 
toán theo GTHL. Đồng thời, bản thân các DN Việt Nam 
cũng cần mạnh dạn nghiên cứu vận dụng GTHL, đặc biệt là 
khối DN niêm yết; Chủ động minh bạch thông tin tài chính, 
tiếp cận thu hút vốn nước ngoài; Thể hiện phương pháp 
xác định GTHL một cách rõ ràng trên Thuyết minh báo cáo 
tài chính. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
[1]. IASB, IFRS 13 - Fair Value Measurement, 2011 
[2]. N. Bobitan, 2011. The differences between revaluation anh assets 
impairment. West University of Timisoara, 126(1), 105-119. 
[3]. Đ.T. Huế, 2018. Kế toán tài sản cố định trong các doanh nghiệp thuộc Tập 
đoàn than khoáng sản Việt Nam. Luận án tiến sĩ, Đại học Thương mại, 2018. 
[4]. P.T.M.Hồng, 2016. Kế toán suy giảm giá trị tài sản trong các doanh 
nghiệp. Luận án tiến sĩ, Đại hoc Kinh tế quốc dân. 
[5]. M.N.Anh, 2011. Có nên sử dụng giá trị hợp lý là cơ sở tính giá duy nhất trong 
kế toán tài chính. Tạp chí Nghiên cứu khoa học Kiểm toán, Số 3/2014, 38-45. 
[6]. P.T.Huyền, 2019. Vận dụng IFRS trong kế toán tài sản cố định tại các 
doanh nghiệp ở Việt Nam. Tạp chí Công Thương, số 11, trang 448 -354 
[7]. N.N.Lan, 2015. Áp dụng giá trị hợp lý theo chuẩn mực kế toán quốc tế ở 
Mỹ và Việt Nam. Tạp chí Châu Mỹ ngày nay, số 205, tháng 4/2015 trang 235-239. 
AUTHORS INFORMATION 
Pham Thu Huyen1, Hoang Thi Thanh2 
1Faculty of Accouting - Auditing, Hanoi University of Industry 
2Faculty of Accounting - Finance, Ho Chi Minh City Industry and Trade College 

File đính kèm:

  • pdfnghien_cuu_ap_dung_mo_hinh_gia_tri_hop_ly_trong_ke_toan_tai.pdf