Thực trạng và định hướng phát triển du lịch bền vững tại thành phố Hồ Chí Minh
Với ưu thế nổi bật về lịch sử, văn hóa, tôn giáo và kết cấu hạ tầng so với mặt bằng chung của cả nước,
Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay đang tiên phong đề xuất và đưa vào thử nghiệm nhiều loại hình du
lịch mới nhằm khai thác hiệu quả các tiềm năng sẵn có. Tuy vậy, trong những năm qua, sự phát triển
nóng của ngành du lịch của Thành phố trong điều kiện kết cấu hạ tầng vật chất xuống cấp và quá tải
cũng tạo ra những áp lực và thách thức không nhỏ. Với mục đích định hướng cho ngành du lịch của
Thành phố phát triển một cách bền vững dài hạn, bài viết này đề xuất một số tiêu chí phát triển du lịch
bền vững dựa vào hoàn cảnh cụ thể của Thành phố Hồ Chí Minh, phân tích những mặt hạn chế chủ yếu
đang tồn tại của ngành du lịch, từ đó kiến nghị hướng khắc phục và một số giải pháp về kinh tế, xã hội,
môi trường.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Tóm tắt nội dung tài liệu: Thực trạng và định hướng phát triển du lịch bền vững tại thành phố Hồ Chí Minh
quan trọng là thu nhập, lợi nhuận và đóng góp ngân sách cho nhà nước. Thu nhập du lịch bao gồm tất cả các khoản thu được do khách du lịch chi trả cho dịch vụ lưu trú, ăn uống, vận chuyển cho khách, các dịch vụ vui chơi giải trí, mua sắm hàng lưu niệm và các dịch vụ bổ sung khác. Sự phát triển và gia tăng liên tục của chi tiêu GDP không chỉ đảm bảo cho sự phát triển bền vững về mặt kinh tế, mà còn cho thấy vị trí của ngành du lịch trong tổng thể nền kinh tế quốc dân. Tỷ trọng càng cao, ổn định và tăng trưởng theo thời gian thì ngành du lịch càng phát triển gần với mục tiêu phát triển bền vững. Chỉ tiêu hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch Hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch (bao gồm các cơ sở lưu trú, ăn uống, vui chơi giải trí, các phương tiện vận chuyển, các văn phòng lữ hành...) là thước đo phản ánh trình độ phát triển của ngành du lịch. Sự phát triển cả về mặt số lượng, chất lượng, chủng loại của hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật ảnh hưởng rất lớn đến việc đáp ứng nhu cầu của khách và khả năng hấp dẫn, thu hút khách đến với điểm du lịch đó. Vì vậy, để có một hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật có chất lượng cao thì cần phải chú trọng đầu tư. Chỉ tiêu nguồn nhân lực trong du lịch Chất lượng đội ngũ lao động được đào tạo không chỉ là yếu tố thu hút khách, nâng cao uy tín của ngành mà còn là yếu tố cạnh tranh trong việc thu hút khách, đảm bảo sự phát triển du lịch bền vững. Công tác đào tạo đội ngũ cán bộ về mặt chuyên môn bên cạnh những kỹ năng nghề nghiệp giỏi, khả năng giao tiếp tốt, thông thạo ngoại ngữ, cần được trang bị kiến thức về tài nguyên, quản lý môi trường, luật môi trường và hệ thống kiến thức sâu rộng về xã hội. Chất lượng đội ngũ lao động sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng của sản phẩm du lịch, chất lượng dịch vụ và kết quả cuối cùng là ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh, sự tăng trưởng của các chỉ tiêu du lịch khác. * Các tiêu chí về tài nguyên - môi trường: Phát triển du lịch bền vững phải khai thác và sử dụng một cách hợp lý, có hiệu quả các tiềm năng tài nguyên và điều kiện môi trường. Việc khai thác và sử dụng nguồn tài nguyên cho phát triển du lịch cần được quản lý và giám sát để đáp ứng nhu cầu hiện tại và đảm bảo cho nhu cầu phát triển du lịch trong tương lai. Tiêu chí này bao gồm các chỉ tiêu sau: Số lượng các khu, điểm, du lịch được đầu tư tôn tạo và bảo tồn Đây là hạt nhân trong phát triển du lịch, trong đó tài nguyên du lịch đóng vai trò trung tâm. Thực tế cho thấy tài nguyên SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 72 (06/2020) 128 du lịch càng phong phú, càng đặc sắc thì sức hấp dẫn và hiệu quả du lịch càng cao. Ở những địa phương càng có nhiều khu, điểm du lịch được đầu tư, bảo tồn, tôn tạo thì chứng tỏ hoạt động phát triển du lịch ở nơi đó càng đáp ứng được mục tiêu phát triển bền vững. Theo tổ chức du lịch thế giới, nếu tỷ lệ này vượt quá 50% thì hoạt động du lịch được xem là trong trạng thái phát triển bền vững. Áp lực lên môi trường - tài nguyên tại các khu, điểm du lịch Một trong những mục tiêu mà phát triển bền vững hướng tới là bảo vệ môi trường. Việc phát triển quá nhanh các hoạt động du lịch mà không chú trọng đến công tác đánh giá và quản lý tác động đến môi trường tại các khu vực phát triển du lịch sẽ là nguyên nhân chính gây ra những hậu quả nghiêm trọng về môi trường và kết quả là sự phát triển du lịch thiếu bền vững. Để hạn chế những tác động tiêu cực và quản lý nguồn tài nguyên - môi trường một cách có hiệu quả cần lưu ý đến vấn đề giảm thiểu các chất thải, mức độ kiểm soát các hoạt động du lịch, mức độ đầu tư bảo tồn và duy trì tính đa dạng sinh học, vấn đề sức chứa tại các điểm du lịch. Mức độ đóng góp từ thu nhập du lịch cho công tác bảo tồn, phát triển tài nguyên và bảo vệ môi trường Việc khai thác và sử dụng nguồn tài nguyên phục vụ du lịch không chỉ mang lại nguồn thu cho ngành du lịch mà còn đóng góp cho cộng đồng địa phương, cơ quan chủ quản các nguồn tài nguyên du lịch. Nguồn thu này sẽ đóng góp vào mục đích tôn tạo, bảo tồn và nâng cấp các nguồn tài nguyên đó. Mức độ đóng góp của ngành du lịch cho công tác bảo tồn được thể hiện qua tỷ lệ giữa phần đóng góp và tổng nguồn thu. Tỷ lệ này càng lớn thì mức độ đóng góp càng cao và đảm bảo cho việc khai thác các nguồn tài nguyên phục vụ phát triển du lịch theo hướng bền vững. Vì vậy đây là tiêu chí không thể thiếu trong việc đánh giá sự phát triển du lịch bền vững về mặt tài nguyên - môi trường. * Các tiêu chí về xã hội: Trong phát triển du lịch bền vững đòi hỏi ngành du lịch phải có những đóng góp cụ thể cho quá trình phát triển của toàn xã hội: Tạo công ăn việc làm cho người lao động, tham gia xóa đói giảm nghèo, nâng cao chất lượng cuộc sống, chia sẻ lợi ích từ các hoạt động du lịch, đảm bảo sự công bằng trong phát triển, góp phần hỗ trợ các ngành kinh tế khác cùng phát triển.v.v. Các tiêu chí về xã hội chủ yếu là: Mức độ phát triển hệ thống các doanh nghiệp du lịch vừa và nhỏ Trong bối cảnh của nền kinh tế thị trường, đòi hỏi các doanh nghiệp du lịch phải có sự thích nghi cao đối với những thay đổi bởi nhiều yếu tố khách qua và chủ quan. Để hạn chế được những rủi ro trong qua trình hoạt động thì cần phải phát triển hệ thống các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Điều này sẽ tạo công ăn việc làm cho một bộ phận không nhỏ người dân lao động ở địa phương, cải thiện chất lượng cuộc sống, nâng cao dân trí, thu hút các nguồn lực phát triển du lịch, phù hợp với tính chất xã hội hóa cao của du lịch, đảm bảo sự phát triển du lịch bền vững về mặt kinh tế, xã hội. Tác động đến xã hội từ chính các hoạt động du lịch Du lịch là một ngành mang tính xã hội hóa cao, vì vậy các hoạt động phát triển du lịch không tránh khỏi những tác động mạnh mẽ lên nhiều mặt của đời sống xã hội trong đó bao gồm cả 2 mặt là tích cực và tiêu cực. Để đảm bảo cho sự phát triển du NGUYỄN HỒNG SƠN - LÊ NGỌC GIAO TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN 129 lịch bền vững, vấn đề đặt ra ở đây là cần phát huy hơn nữa những mặt tích cực và kiểm soát, hạn chế những tiêu cực từ hoạt động này. Mức độ hài lòng và hợp tác của cộng đồng địa phương đối với các hoạt động du lịch Để đảm bảo phát triển du lịch bền vững cần có sự ủng hộ, hợp tác của cộng đồng địa phương – chủ nhân của các nguồn tài nguyên. Họ chính là người bảo vệ những tài nguyên và môi trường du lịch. Mức độ hài lòng của cộng đồng dân cư địa phương đối với các hoạt động du lịch sẽ phản ánh mức độ bền vững của du lịch trong quá trình phát triển. 2. Điều kiện và tiềm năng phát triển du lịch của Thành phố Hồ Chí Minh 2.1. Một số thông tin cơ bản về Thành phố Hồ Chí Minh - Diện tích: 2.095,5 km². - Dân số: 8.993 nghìn người (TCTK 1/4/2019). - Các quận, huyện: + Quận: Quận 1, Quận 2, Quận 3, Quận 4, Quận 5, Quận 6, Quận 7, Quận 8, Quận 9, Quận 10, Quận 11, Quận 12, Tân Bình, Bình Thạnh, Phú Nhuận, Thủ Đức, Gò Vấp, Bình Tân, Tân Phú. + Huyện: Nhà Bè, Cần Giờ, Hóc Môn, Củ Chi, Bình Chánh. - Dân tộc: Việt (Kinh), Hoa, Khmer, Chăm. 2.2. Điều kiện tự nhiên Lãnh thổ Thành phố Hồ Chí Minh có tọa độ địa lý 10º22'13" – 11º22'17" vĩ độ Bắc và 106º01'25" – 107º01'10" kinh độ Đông. Phía bắc giáp Tây Ninh, Bình Dương, phía đông giáp Đồng Nai, phía nam giáp biển Đông và Tiền Giang, phía tây giáp Long An. - Thổ nhưỡng: đất của thành phố chủ yếu là phù sa cũ và phù sa mới tạo lập nên. - Sông ngòi: trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh có hàng trăm sông ngòi, kênh rạch nhưng sông lớn không nhiều, lớn nhất là sông Sài Gòn với độ dài đoạn chảy qua Thành phố khoảng 106 km; hệ thống đường sông từ Thành phố lên miền Đông và xuống các tỉnh miền Tây, sang Campuchia đều thuận lợi; Thành phố có 15km bờ biển. - Khí hậu: chia làm hai mùa rõ rệt; mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 11, lượng mưa bình quân trong một năm là 1.979mm; mùa khô từ tháng 12 đến tháng 4 năm sau; nhiệt độ trung bình năm 27,55ºC, không có mùa đông. * Tiềm năng phát triển du lịch: Hiện nay, Thành phố Hồ Chí Minh là trung tâm du lịch lớn nhất nước, thu hút khoảng 60% lượng khách quốc tế đến Việt Nam hàng năm. Sở dĩ như vậy vì ngoài cơ sở hạ tầng khá tốt, giao thông tương đối thuận tiện, thành phố là một nơi có tài nguyên du lịch phong phú. Nơi đây là một vùng đất gắn liền với lịch sử đấu tranh giành độc lập của dân tộc kể từ khi thực dân Pháp đặt chân lên Việt Nam. Thành phố cũng là nơi Chủ tịch Hồ Chí Minh ra đi tìm đường cứu nước (1911). Gắn liền với sự kiện đó, cảng Nhà Rồng và Bảo tàng Hồ Chí Minh là một di tích quan trọng, thu hút nhiều khách du lịch trong và ngoài nước. Các di tích cách mạng khác như địa đạo Củ Chi, hệ thống các bảo tàng, nhà hát, nhà văn hoá, các công trình kiến trúc thời Pháp là những điểm du lịch hấp dẫn. Gần đây Thành phố đã đầu tư nhiều khu du lịch như Thanh Đa, Bình Qưới, nhiều khu vui chơi giải trí như Đầm Sen, Thảo Cầm Viên, Kỳ Hoà, công viên Nước, Suối Tiên... đã thu hút và hấp dẫn du khách. Hiện nay, Thành phố đang tiến hành tôn SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 72 (06/2020) 130 tạo các di tích lịch sử, các công trình kiến trúc cổ, đầu tư cho hệ thống bảo tàng, khôi phục nền văn hoá truyền thống kết hợp với tổ chức các lễ hội, khôi phục văn hoá miệt vườn, làng hoa để phát triển một cách vững chắc ngành du lịch của Thành phố. Với hơn 300 năm hình thành và phát triển, Thành phố Hồ Chí Minh có nhiều công trình kiến trúc cổ như Nhà Rồng, đền Quốc Tổ, dinh Xã Tây, Nhà hát lớn, Bưu điện, hệ thống các ngôi chùa cổ (chùa Giác Lâm, chùa Bà Thiên Hậu, chùa Tổ Đình Giác Viên...), hệ thống các nhà thờ cổ (Đức Bà, Huyện Sỹ, Thông Tây Hội, Thủ Đức...). Nhìn chung, một trong những đặc trưng văn hoá của 300 năm lịch sử đất Sài Gòn - Gia Định, nơi hội tụ nhiều dòng chảy văn hoá, là “cơ cấu kiến trúc” Việt - Hoa - châu Âu. Một nền văn hoá kết hợp hài hoà giữa truyền thống dân tộc của người Việt với những nét đặc sắc của văn hoá phương Bắc và phương Tây. 2.4. Giao thông Thành phố Hồ Chí Minh là đầu mối giao thông của cả miền Nam bao gồm đường sắt, đường bộ, đường thủy và đường không. Từ Thành phố đi Hà Nội có quốc lộ 1A, Đường sắt Thống nhất và quốc lộ 13 xuyên Đông Dương. Sân bay quốc tế Tân Sơn Nhất chỉ cách trung tâm Thành phố 7 km, là sân bay có lượng hành khách lớn nhất nước với hơn chục đường bay nội địa và quốc tế. Có các đường bay nội địa từ Thành phố tới Buôn Ma Thuột, Đà Lạt, Đà Nẵng, Hà Nội, Hải Phòng, Huế, Nha Trang, Phú Quốc, Pleiku, Quy Nhơn, Rạch Giá, Vinh. Thành phố Hồ Chí Minh cách Hà Nội 1.730 km, cách Tây Ninh 99km, Biên Hòa (Đồng Nai) 30km, Mỹ Tho 70km, Vũng Tàu 129km, Cần Thơ 168km, Đà Lạt 308km, Buôn Ma Thuột 375km. Theo Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, hiện nay Thành phố có 144 di sản thiên nhiên, di sản văn hóa, các khu, điểm du lịch và loại hình du lịch. Thành phố có nhiều ưu thế để phát triển du lịch, dịch vụ, là một trong những trung tâm trung chuyển, đầu mối tiếp nhận khách quốc tế và nội địa quan trọng của cả nước, với đường bay thẳng đến nhiều quốc gia trên thế giới, hàng năm đón nhận trên 20 triệu lượt hành khách. Bên cạnh đó, Thành phố Hồ Chí Minh còn là nơi tập trung nhiều các cơ sở lưu trú, ăn uống, cơ sở dịch vụ mua sắm, cơ sở tổ chức hội nghị du lịch cao cấp hàng đầu của Việt Nam, hiện các cơ sở này đang giải quyết việc làm cho khoảng 81.000 người dân Thành phố và các tỉnh, thành khác. Ngoài ra, Thành phố còn là nơi có lực lượng lao động trực tiếp, có trình độ đào tạo và kinh nghiệm trong ngành du lịch lớn nhất nước. Một số di sản thiên nhiên, di sản văn hóa, các khu, điểm du lịch tiêu biểu có thể kể đến như Khu dự trữ sinh quyển Cần Giờ, Khu di tích lịch sử địa đạo Củ Chi, Công viên Văn hóa Đầm Sen, Khu du lịch Văn hóa Suối Tiên, Làng Du lịch Bình Quới, Khu du lịch Vàm Sát, Bảo tàng thành phố, Dinh Thống Nhất, Bảo tàng Chứng tích Chiến tranh, Chợ Bến Thành, Bưu điện thành phố, Nhà thờ Đức Bà... (Sở Du lịch Thành phố Hồ Chí Minh, 2016). 3. Những thành tựu và những tồn tại của ngành du lịch Thành phố Hồ Chí Minh trong bối cảnh hội nhập 3.1. Điểm qua một số thành tựu đã đạt được của Thành phố Hồ Chí Minh trong những năm gần đây Với những điều kiện như đã phân tích ở trên, thời gian qua, ngành du lịch Thành phố Hồ Chí Minh luôn giữ vị trí, vai trò NGUYỄN HỒNG SƠN - LÊ NGỌC GIAO TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN 131 quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội của Thành phố và cả nước. Trong năm 2013, với hơn 18 triệu lượt khách du lịch quốc tế và trong nước đến Thành phố Hồ Chí Minh, ngành du lịch thành phố đã tạo ra doanh thu khoảng 71.000 tỷ đồng (tương đương 3,5 tỷ USD), chiếm 11,6% tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ trên địa bàn đồng thời chiếm 45% doanh thu du lịch của cả nước. Tỷ trọng đóng góp của du lịch vào GDP của Thành phố năm 2013 đạt 11%. Năm 2014, tổng lượng khách quốc tế và trong nước đến Thành phố đạt 22 triệu lượt, mang lại tổng doanh thu du lịch (lữ hành, khách sạn, nhà hàng) hơn 86.000 tỷ đồng. Riêng 7 tháng đầu năm 2015, chỉ tính lượt khách quốc tế đến Thành phố đạt gần 2,5 triệu lượt khách (tăng 4% so với cùng kỳ), góp phần mang về tổng doanh thu du lịch 53.317 tỷ đồng. Theo Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, trong năm 2015, Thành phố đã đón hơn 19,3 triệu lượt khách du lịch trong nước và 4,6 triệu lượt khách du lịch quốc tế, chiếm khoảng 57% lượt khách quốc tế đến Việt Nam. Doanh thu từ du lịch của Thành phố trong năm 2015 đạt 94.600 tỷ đồng, tương đương 4,2 tỷ USD, chiếm 9,88% GDP của Thành phố và 30,2% doanh thu du lịch của cả nước (Sở Du lịch Thành phố Hồ Chí Minh, 2016). Sau đây là số liệu thống kê của các chỉ tiêu chủ yếu, quan trọng trong ngành du lịch Thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn 2011 - 2015. Bảng 1. Thống kê số lượng khách du lịch quốc tế đến Thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn 2011 – 2015 Năm 2011 2012 2013 2014 2015 Lượng khách 3.500.000 3.800.000 4.109.000 4.400.000 4.600.000 % tăng trưởng 12,90% 8,50% 8,1% 7,08% 4,60% Bảng 2. Thống kê số lượng khách quốc tế đến Thành phố Hồ Chí Minh so với cả nước giai đoạn 2011 – 2015 Năm 2011 2012 2013 2014 2015 TP.HCM 3.500.000 (58,3 %) 3.800.000 (55,8%) 4.109.000 (54,7%) 4.400.000 (56,4%) 4.600.000 (58,2%) Việt Nam 6.000.000 6.800.000 7.500.000 7.800.000 7.900.000 Bảng 3. Thống kê số lượng khách nội địa đến Thành phố Hồ Chí Minh so với cả nước giai đoạn 2011-2015 Năm 2011 2012 2013 2014 2015 TP.HCM 10.020.000 (33,4%) 12.500.000 (38,4%) 15.600.000 (44,5%) 17.600.000 (45,7%) 19.300.000 (33,8%) Việt Nam 30.000.000 32.500.000 35.000.000 38.500.000 57.000.000
File đính kèm:
- thuc_trang_va_dinh_huong_phat_trien_du_lich_ben_vung_tai_tha.pdf