Thực trạng phát triển du lịch dựa vào cộng đồng của dân tộc Cơ Tu tại xã Ta-Bhing, huyện Nam Giang, tỉnh Quảng Nam

Tóm tắt

Khoảng hơn chục năm trở lại đây, du lịch dựa vào cộng đồng bắt đầu xuất hiện và dần phát triển ở

Việt Nam, gắn với việc khai thác và phát huy bản sắc văn hóa độc đáo của cộng đồng. Được triển khai từ

năm 2012, mô hình du lịch dựa vào cộng đồng của dân tộc Cơ Tu tại xã Ta-Bhing, huyện Nam Giang, tỉnh

Quảng Nam được định hướng phát triển theo hướng bền vững, chú trọng đến việc bảo vệ môi trường,

phục hồi và phát huy giá trị văn hóa truyền thống người Cơ Tu. Trên cơ sở các kết quả điền dã dân tộc học,

bài viết phân tích thực trạng hoạt động du lịch dựa vào cộng đồng của dân tộc Cơ Tu tại xã Ta-Bhing; áp

dụng khung phân tích SWOT chỉ ra cơ hội, thách thức, điểm mạnh, điểm yếu cũng như một số vấn đề đặt

ra đối với du lịch cộng đồng nơi đây

Thực trạng phát triển du lịch dựa vào cộng đồng của dân tộc Cơ Tu tại xã Ta-Bhing, huyện Nam Giang, tỉnh Quảng Nam trang 1

Trang 1

Thực trạng phát triển du lịch dựa vào cộng đồng của dân tộc Cơ Tu tại xã Ta-Bhing, huyện Nam Giang, tỉnh Quảng Nam trang 2

Trang 2

Thực trạng phát triển du lịch dựa vào cộng đồng của dân tộc Cơ Tu tại xã Ta-Bhing, huyện Nam Giang, tỉnh Quảng Nam trang 3

Trang 3

Thực trạng phát triển du lịch dựa vào cộng đồng của dân tộc Cơ Tu tại xã Ta-Bhing, huyện Nam Giang, tỉnh Quảng Nam trang 4

Trang 4

Thực trạng phát triển du lịch dựa vào cộng đồng của dân tộc Cơ Tu tại xã Ta-Bhing, huyện Nam Giang, tỉnh Quảng Nam trang 5

Trang 5

Thực trạng phát triển du lịch dựa vào cộng đồng của dân tộc Cơ Tu tại xã Ta-Bhing, huyện Nam Giang, tỉnh Quảng Nam trang 6

Trang 6

Thực trạng phát triển du lịch dựa vào cộng đồng của dân tộc Cơ Tu tại xã Ta-Bhing, huyện Nam Giang, tỉnh Quảng Nam trang 7

Trang 7

Thực trạng phát triển du lịch dựa vào cộng đồng của dân tộc Cơ Tu tại xã Ta-Bhing, huyện Nam Giang, tỉnh Quảng Nam trang 8

Trang 8

Thực trạng phát triển du lịch dựa vào cộng đồng của dân tộc Cơ Tu tại xã Ta-Bhing, huyện Nam Giang, tỉnh Quảng Nam trang 9

Trang 9

pdf 9 trang xuanhieu 5020
Bạn đang xem tài liệu "Thực trạng phát triển du lịch dựa vào cộng đồng của dân tộc Cơ Tu tại xã Ta-Bhing, huyện Nam Giang, tỉnh Quảng Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Thực trạng phát triển du lịch dựa vào cộng đồng của dân tộc Cơ Tu tại xã Ta-Bhing, huyện Nam Giang, tỉnh Quảng Nam

Thực trạng phát triển du lịch dựa vào cộng đồng của dân tộc Cơ Tu tại xã Ta-Bhing, huyện Nam Giang, tỉnh Quảng Nam
 tại xã Ta-Bhing, huyện 
Nam Giang [1]. 
Xuất phát từ chính sáng kiến của người dân 
về việc họ muốn giới thiệu gì cho khách, dự án 
đã thành lập ở mỗi thôn các nhóm sáng kiến 
cộng đồng theo thế mạnh của từng thôn. Hiện 
nay HTX du lịch Ta-Bhing đã có hơn 20 nhóm 
sáng kiến. Tại mỗi nhóm lại có trưởng nhóm 
và các hướng dẫn viên riêng. Các thành viên 
trong ban điều hành tour có nhiệm vụ điều 
phối các nhóm cùng hợp tác phục vụ khách. 
Sau mỗi chuyến đón đoàn, ban điều hành 
và các nhóm sáng kiến đều tổ chức các cuộc 
họp đánh giá để cải thiện chất lượng phục vụ 
cho lần sau. Bên cạnh đó, chính quyền phối 
hợp với các chuyên gia Nhật Bản tổ chức các 
buổi tập huấn để hướng dẫn người dân các kỹ 
năng làm DLDVCĐ. Các kiến thức về kỹ năng 
giao tiếp, các khóa đào tạo dịch vụ ẩm thực, 
về hướng dẫn viên du lịch tại địa phương, 
những câu chuyện dân gian, các loại hình âm 
nhạc, nghệ thuật truyền thống,... đã được khơi 
dậy và được tổ chức một cách hợp lý, để cung 
cấp kỹ năng cho đồng bào nhằm phục vụ du 
khách một cách tốt nhất.
Điều đáng chú ý là, người dân ở Ta-Bhing 
vẫn duy trì các công việc và đời sống sinh hoạt 
như bình thường, chỉ khi có tour thì mọi người 
mới tham gia làm du lịch. Một người dân địa 
phương đã tham gia khoảng 3 năm với tư cách 
là thuyết minh viên, cho biết, chị rất vui khi có 
cơ hội làm du lịch như thế này, bởi chị vẫn đảm 
bảo được các công việc bình thường của một 
người phụ nữ Cơ Tu như chăm sóc con cái, làm 
nương rẫy, mà lại có thêm thu nhập từ làm 
du lịch. Chị có cơ hội hiểu hơn về những giá 
trị đặc sắc truyền thống của chính cộng đồng, 
địa phương nơi mình sinh sống. Từ đó chị sẽ 
truyền tải đến du khách những giá trị này bằng 
tình yêu và sự tôn trọng đối với dân tộc mình 
(PVS, C., nữ, 29 tuổi).
Khi được hỏi rằng đâu là điều mà bạn cảm 
thấy ấn tượng nhất khi đến thăm Ta-Bhing, 
một du khách chia sẻ: “Có nhiều điều ấn tượng, 
nhưng điều làm cho tôi ấn tượng nhất đó là sự 
thân thiện và lòng hiếu khách của bà con. Thực 
ra ở nhiều nơi khác người ta cũng rất nhiệt tình, 
rất thân thiện nhưng ở đây mình cảm nhận được 
sự gần gũi tự nhiên của bà con, tức là không phải 
người ta đang phải cố tỏ ra thân thiện với mình” 
(PVS, T., nam, 45 tuổi).
2.5. Công tác xúc tiến, quảng bá du lịch
Công tác tuyên truyền, quảng bá về 
DLDVCĐ Cơ Tu đã và đang được thực hiện với 
nhiều phương thức khác nhau. Chuyên gia của 
FIDR cho biết: “Về công tác quảng bá du lịch thì 
chúng tôi đa số tận dụng phương tiện internet 
như facebook, website, v.v. Bên cạnh đó, chúng 
tôi đang liên kết với 10 công ty du lịch, lữ hành. 
Nhưng trên thực tế thì chúng tôi không cho một 
công ty nào đứng ra quản lý hay kiểm soát cộng 
đồng. Những công ty đó chỉ liên kết và thông 
qua cộng đồng để đặt tour” (PVS, M., nữ, 36 
tuổi). Theo ông Đinh Hài - Giám đốc Sở Văn 
hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Quảng Nam, mô 
hình “DLDVCĐ của dân tộc Cơ Tu” có những 
nét riêng biệt độc đáo, vì vậy cần mở rộng kết 
Số 32 (Tháng 6 - 2020)92
NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA
nối với các điểm du lịch khác như thác Grăng 
và đường mòn Hồ Chí Minh. Ông Hài khẳng 
định: “Thời gian tới, Sở sẽ giúp quảng bá mô 
hình này trên website du lịch Quảng Nam cũng 
như trong các hoạt động xúc tiến du lịch trong và 
ngoài nước. Đặc biệt sẽ giới thiệu 3 đơn vị lữ hành 
là Công ty Cổ phần Du lịch dịch vụ Hội An, Công 
ty Cổ phần Du lịch và thương mại Lê Nguyễn và 
Công ty Du lịch mạo hiểm lên khảo sát đưa khách 
đến” [4]. Một cán bộ Phòng Văn hóa và Thông 
tin huyện Nam Giang cho biết: “Phòng đang xúc 
tiến quảng bá bằng hình thức phát tờ rơi, trên các 
trang mạng xã hội internet. Từ năm 2016, Phòng 
bắt đầu có cán bộ phụ trách về mảng công nghệ 
thông tin” (PVS, R., nam, 25 tuổi).
Đến với DLDVCĐ Cơ Tu ở Ta-Bhing, du khách 
sẽ được tặng một số tờ rơi giới thiệu về tour du 
lịch mang tên “Hương sắc Cơ Tu”. Trong đó có 
những thông tin sơ lược về dự án, về những 
sản phẩm du lịch tiêu biểu; một số đề nghị đối 
với du khách tham quan, trải nghiệm tour. Về 
thông tin liên hệ với đơn vị điều hành tour, tờ 
rơi cung cấp 2 địa chỉ email (cotucbt@fidr.vn và 
fidrvn@fidr.vn) và 1 số điện thoại cố định. 
Việc quảng bá thông tin du lịch trên 
internet là một hình thức quảng bá phổ biến 
hiện nay. Tuy nhiên, khi tìm kiếm trên website 
 là website chính 
thức của Trung tâm Thông tin xúc tiến du lịch 
Quảng Nam, thì không có thông tin về điểm 
hay tour du lịch nào mang tên “DLDVCĐ của 
dân tộc Cơ Tu ở Ta-Bhing”, mà chỉ giới thiệu về 
nghề dệt thổ cẩm Cơ Tu, làng truyền thống 
của người Cơ Tu. Điều đó cho thấy, những 
thông tin du lịch trên trang web của Trung 
tâm Thông tin xúc tiến du lịch Quảng Nam là 
những thông tin cũ và chưa được cập nhật.
3. Nhận xét về du lịch dựa vào cộng đồng 
của dân tộc Cơ Tu ở xã Ta-Bhing và một số 
vấn đề bàn luận
Để nhận diện những thuận lợi, khó khăn, 
cơ hội, thách thức của mô hình DLDVCĐ của 
dân tộc Cơ Tu tại Ta-Bhing, chúng tôi áp dụng 
khung phân tích SWOT6 là một công cụ của 
ngành quản trị hiện đại giúp đánh giá và kiểm 
soát được những yếu tố bên trong - bên ngoài, 
từ đó đưa ra được những chiến lược phù hợp 
cho sự phát triển đúng hướng. 
Áp dụng SWOT, chúng tôi nhận thấy 
DLDVCĐ của dân tộc Cơ Tu ở Ta-Bhing có 
những điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội, thách 
thức sau:
* Điểm mạnh:
- Không phải huy động vốn do được FIDR 
lấy làm điểm hỗ trợ (Gồm nhiều lĩnh vực không 
chỉ du lịch).
- Nguồn khách quốc tế có khả năng chi tiêu 
cao ổn định đến từ FIDR.
- Đặc trưng văn hóa truyền thống, cách 
thức tổ chức cộng đồng, kiến trúc, phong tục 
tập quán đặc sắc, rất khác biệt với các nhóm 
dân tộc thiểu số khác.
- Văn hóa truyền thống được bảo tồn khá 
nguyên vẹn từ trang phục đến kiến trúc nhà ở, 
nhà cộng đồng, các tập tục cổ xưa và biểu diễn 
dân gian - lễ hội.
- Được FIDR quảng bá miễn phí qua sản 
phẩm dệt, được Nhà nước hỗ trợ quảng bá 
trong các hội làng nghề, sự kiện trong nước.
- Nguồn tài nguyên du lịch tự nhiên hay 
môi trường tự nhiên nguyên sơ chưa bị ảnh 
hưởng nhiều bởi công nghiệp hóa.
- Có nghề truyền thống.
- Tập tục, hành vi tín ngưỡng đã từng xảy ra 
như tục săn máu có thể gây tò mò cho khách 
du lịch thuộc nhóm đối tượng là các nhà 
nghiên cứu nhân chủng học, nhân học, tôn 
giáo tín ngưỡng và xã hội học (và những nhóm 
khách cùng mối quan tâm khác).
* Điểm yếu:
- Cộng đồng chưa có nhiều kinh nghiệm 
xây dựng sản phẩm du lịch và tiến hành tổ 
chức phục vụ du lịch.
- Mục tiêu bị phân tán: Ngoài DLDVCĐ, xã 
Ta-Bhing phải phân bổ nguồn lực cho mục tiêu 
phát triển nghề truyền thống.
- Khó thu hút khách du lịch nội địa.
- Chưa có trang web riêng và các hình thức 
tuyên truyền quảng bá còn nghèo nàn.
- Năng lực ngoại ngữ của cộng đồng còn thấp.
- Một số tập tục, hành vi từng xảy ra trong 
quá khứ ảnh hưởng xấu tới tâm lý khách du 
lịch (Tục săn máu đã được tác giả người Pháp 
viết thành sách, phát hành toàn thế giới, nhiều 
bài báo gần đây cũng đề cập đến tập tục này).
93Số 32 (Tháng 6 - 2020)
VĂN HÓA DU LỊCH
NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA
- Chưa tổ chức được hoạt động homestay, 
hoạt động điển hình trong sản phẩm DLDVCĐ 
dẫn tới việc cộng đồng vẫn khá khép kín đối 
với khách du lịch.
- HTX du lịch Ta-Bhing hoạt động chưa thực 
sự hiệu quả.
- Ví trị địa lý xa xôi, khó khăn cho di chuyển, 
tiếp cận điểm của khách du lịch.
- Chưa tự chủ quy trình khép kín trong 
DLDVCĐ (thị trường, tổ chức bán sản phẩm du 
lịch, thực hiện sản phẩm du lịch).
* Cơ hội:
- Khách du lịch quốc tế đến Việt Nam ngày 
càng đông, trong đó khách du lịch có trách 
nhiệm, du lịch xanh và DLDVCĐ có tỷ lệ ngày 
càng tăng (đến từ các quốc gia phát triển).
- Ngành Du lịch Việt Nam quan tâm nhiều 
hơn đến công tác xúc tiến phát triển du lịch 
ra thị trường quốc tế (đầu tư tiền và chất 
xám nhiều hơn vào hoạt động marketing, 
promotion).
- Hệ thống pháp luật trong lĩnh vực du lịch 
ngày càng được hoàn thiện. Tránh được chi phí 
“lót tay”, bôi trơn khi đăng ký hoặc vận hành 
sản phẩm.
- Hệ thống giao thông vận tải ở Quảng Nam 
ngày càng phát triển và được hiện đại hóa.
- Thông tin liên lạc phát triển, trong đó có 
thể kể đến internet, tỷ lệ điện thoại di động 
được sử dụng trong giới trẻ
- Nhiều điểm DLDVCĐ khác đang trong giai 
đoạn thoái trào do thời gian phát triển lâu, dịch 
vụ nhàm chán và không duy trì được mục tiêu 
phát triển bền vững (ví dụ: bản Lác, Hòa Bình).
- Có sự hỗ trợ mạnh mẽ từ FIDR, giai đoạn 3 
có thêm sự tham gia của tổ chức cấp cao hơn là 
JICA với nguồn vốn và phạm vi hoạt động rộng 
hơn. Đặc biệt JICA đã có nhiều kinh nghiệm 
trong các dự án DLDVCĐ trên khắp nước ta.
* Thách thức
- Nhiều điểm DLDVCĐ khác đã rất phát 
triển và hút khách từ các trung tâm du lịch lớn 
như các điểm DLDVCĐ miền núi phía Bắc, các 
tỉnh Tây Nguyên và Hội An. 
- Áp lực phát triển du lịch bền vững dẫn đến 
những quy định bảo vệ môi trường, bảo tồn di 
sản văn hóa nghiêm ngặt hơn dành cho hoạt 
động du lịch dẫn đến không thể phát triển du 
lịch đại chúng (lấy số lượt khách làm chủ đạo).
- Kinh tế khủng hoảng, thị trường bị thu 
hẹp lại do khách du lịch thắt chặt chi tiêu.
- Thị trường du lịch bị giới hạn bởi nguồn 
khách do FIDR liên hệ và giới thiệu về điểm.
- Xuất hiện nhiều điểm DLDVCĐ mới do các 
tỉnh thành học tập mô hình DLDVCĐ từ các 
điểm đã được thực hiện thành công.
- Các công ty du lịch - lữ hành quan tâm 
không nhiều đến điểm.
- Mục tiêu phát triển bền vững trên cả ba 
khía cạnh khó được đảm bảo do phụ thuộc 
nhiều vào sự hỗ trợ bên ngoài (FIDR, chính 
quyền địa phương).
Kết luận
Để đánh giá tính hiệu quả của một dự 
án DLDVCĐ, các chỉ số kinh tế như thu nhập 
đầu người, lượt khách, doanh thu du lịch 
theo năm, thường đóng vai trò quyết định. 
Ngược lại, khi đánh giá tính bền vững của dự 
án DLDVCĐ, vấn đề không chỉ tập trung vào 
các chỉ số thống kê trong thời gian dự án được 
triển khai mà còn phải thực hiện đánh giá, dự 
đoán hướng phát triển và dựa vào chỉ số thống 
kê dài hạn sau khi dự án kết thúc. Trong thực 
tiễn, để phát triển một điểm DLDVCĐ theo các 
nguyên tắc bền vững, đòi hỏi sự nỗ lực rất lớn 
của các bên liên quan bao gồm chính quyền địa 
phương - cộng đồng - tổ chức tài trợ - hệ thống 
doanh nghiệp du lịch chứ không chỉ dựa vào 
một hoặc hai chủ thể. Trường hợp ở Ta-Bhing, 
chúng tôi cho rằng việc chỉ dựa vào FIDR hoặc 
nỗ lực của chính quyền để phát triển DLDVCĐ 
là chưa đủ. Thêm vào đó, Ta-Bhing là một trong 
những trường hợp nghiên cứu phức tạp, có sự 
đan xen, chồng lấn các dự án phát triển cộng 
đồng, y tế, nông nghiệp, phục hồi nghề truyền 
thống với dự án DLDVCĐ. Hơn nữa, mục tiêu 
của nhà tài trợ FIDR là khá tham vọng khi tập 
trung vào việc phát triển toàn diện (chứ không 
chỉ là du lịch) một cộng đồng thuộc nhóm dân 
tộc ít người. Do đó, để phát triển DLDVCĐ một 
cách toàn diện, phải có các giải pháp đồng bộ 
về cơ chế chính sách, về tổ chức, quy hoạch, 
quản lý và cả về truyền thông, giáo dục, có như 
Số 32 (Tháng 6 - 2020)94
NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA
vậy, DLDVCĐ của dân tộc Cơ Tu mới có hiệu 
quả dài lâu trong tương lai, đảm bảo tính phát 
triển bền vững đúng như định hướng ban 
đầu của các bên liên quan khi quyết định làm 
DLDVCĐ nơi đây.
T.S.T; L.H.T
Chú thích
1 Các trích dẫn phỏng vấn sâu trong bài viết là 
tư liệu điền dã dân tộc học của nhóm tác giả tại 
xã Ta-Bhing, huyện Nam Giang, tỉnh Quảng Nam, 
tháng 7/2018.
2 FIDR là một tổ chức phi chính phủ Nhật Bản, 
được Bộ Ngoại giao Việt Nam cấp Giấy Đăng ký 
Văn phòng Dự án tại Đà Nẵng, hoạt động trong 
lĩnh vực hỗ trợ cải thiện dinh dưỡng, cải thiện 
an ninh lương thực và phát triển DLDVCĐ. Tính 
đến nay, FIDR đã và đang triển khai hơn 40 dự 
án trong các lĩnh vực y tế, giáo dục, cứu trợ, tại 
một số tỉnh, thành phố ở khu vực miền Trung - 
Tây Nguyên. 
3 Số liệu tính đến 31/12/2012 theo Cổng 
thông tin điện tử huyện Nam Giang.
4 “Săn máu, lấy đầu người” từng là một tập 
tục có thật của người Cơ Tu ở Quảng Nam và khu 
vực miền Trung - Tây Nguyên. Tập tục này có từ 
xa xưa nhưng được công chúng biết đến và làm 
rúng động dư luận khi cuốn sách Những kẻ săn 
máu (Les Chasseurs de Sang) của Le Pichon - một 
người lính viễn chinh Pháp - được công bố. Trong 
hồi ký của nhà cách mạng Quách Xuân cũng 
nhắc nhiều đến tập tục này của người Cơ Tu. Cho 
đến nay, trong các công trình nghiên cứu về tộc 
người Cơ Tu, các nhà nghiên cứu Việt Nam đều 
thừa nhận: Săn máu là một tập tục có thật trong 
quá khứ của dân tộc Cơ Tu, là những cuộc chiến 
“săn máu - nợ đầu” kéo dài ngay trong tộc người 
này. Những mùa săn máu của người Cơ Tu trước 
đây chủ yếu liên quan đến quan niệm về thần linh 
của cộng đồng, dùng máu người để cúng Giàng, 
mong cho mùa màng được tốt, trong làng không 
còn ai bị “chết xấu”. Những trận chiến như vậy 
thường được đồng bào gọi với cái tên “giặc mùa”. 
5 Về sau, trên thực tế, bà con vẫn tiếp khách 
nhóm nhỏ hơn, từ 2 đến 5 người nhưng chương 
trình tour sẽ rút gọn, du khách không được trải 
nghiệm phần tái hiện lễ hội cộng đồng, cũng 
không đi hết cả 7 thôn, mà chỉ đi tham quan 2 thôn, 
khám phá cuộc sống thường nhật của bà con.
6 SWOT là chữ cái đầu của 4 từ tiếng Anh: S 
(strength): điểm mạnh; W (weak): điểm yếu; O 
(oppotunity): cơ hội; T (threat): thách thức hay 
nguy cơ. SWOT là sản phẩm từ một nghiên cứu 
của Trường Đại học Standford (Mỹ) được tiến 
hành trên 500 tổ chức, doanh nghiệp toàn nước 
Mỹ. Không chỉ được sử dụng trong lĩnh vực kinh 
tế học, phương pháp SWOT còn được áp dụng 
trong nhiều lĩnh vực, ngành nghề khác, trong đó 
có du lịch.
Tài liệu tham khảo
1. BT (2017), “Mô hình Du lịch dựa vào cộng 
đồng Cơ Tu phát huy hiệu quả”, 
antv.gov.vn/tin-tuc/kinh-te/mo-hinh-du-lich-
dua-vao-cong-dong-co-tu-phat-huy-hieu-
qua-217265.html
2. Nguyễn Đình Hòe, Vũ Văn Hiếu (2001), Du lịch 
bền vững, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
3. Gia Khang (2018), “Phát triển du lịch dựa 
vào giá trị văn hóa Cơ Tu”, 
vn/du-lich/201807/phat-trien-du-lich-dua-vao-
gia-tri-van-hoa-co-tu-806512/
4. Khánh Linh (2013), “Dự án Du lịch dựa 
vào cộng đồng Cơ Tu: Cải thiện sinh kế cho 
người dân”, 
thoi-su-kinh-te/201307/du-an-du-lich-dua-vao-
cong-dong-co-tu-cai-thien-sinh-ke-cho-nguoi-
dan-323339/
5. P.H (2018), “Người Cơ Tu làm du lịch cộng 
đồng”, https://baotintuc.vn/dan-toc-mien-nui/ 
nguoi-cotu-lam-du-lich-cong-dong-2018040916
2014782.htm
6. Đặng Quang Thành (2000), Phát huy bản 
sắc văn hóa dân tộc trong kinh doanh du lịch, Nxb. 
Trẻ, Tp. Hồ Chí Minh.
7. Trương Sỹ Tâm (chủ nhiệm) (2018), Du lịch 
dựa vào cộng đồng theo hướng bền vững của đồng 
bào dân tộc Cơ Tu xã Ta-Bhing, huyện Nam Giang, 
tỉnh Quảng Nam, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp 
Trường, Trường Đại học Văn hóa Hà Nội.
8. Bùi Thị Hải Yến (chủ biên) (2012), Du lịch 
dựa vào cộng đồng, Nxb. Giáo dục, Hà Nội. 
Ngày nhận bài: 31 - 5 - 2020
Ngày phản biện, đánh giá: 5 - 6 - 2020
Ngày chấp nhận đăng: 25 - 6 - 2020

File đính kèm:

  • pdfthuc_trang_phat_trien_du_lich_dua_vao_cong_dong_cua_dan_toc.pdf