Thực trạng giảng dạy tiếng Trung cho học sinh Trung học phổ thông ở khu vực phía Nam đáp ứng yêu cầu đổi mới dạy và học ngoại ngữ trong hệ thống giáo dục quốc dân
Kết quả nghiên cứu thực trạng giảng dạy tiếng Trung cho học sinh (HS) trung học phổ thông (THPT) đáp
ứng yêu cầu đổi mới dạy và học ngoại ngữ trong hệ thống giáo dục quốc dân ở khu vực phía Nam cho
phép nhận định, việc thực hiện các yêu cầu về nội dung, phương pháp giảng dạy và công tác đánh giá của
đội ngũ giáo viên tiếng Trung thời gian qua đã đạt được những thành tựu đáng khích lệ. Kết quả này có
được từ việc so sánh mức độ đánh giá của giáo viên và học sinh về các tiêu chí: kiến thức cơ bản, kỹ năng,
thực hiện các yêu cầu về nội dung, phương pháp giảng dạy. Tuy nhiên để đáp ứng yêu cầu ngày càng cao
về đổi mới dạy và học ngoại ngữ trong hệ thống giáo dục quốc dân, cần quan tâm hơn nữa đến việc giúp
HS phát triển các kỹ năng mềm khi học tiếng Trung, cải tiến cách đánh giá HS theo các loại điểm số quy
định và đánh giá để xây dựng kế hoạch giảng dạy phù hợp.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tóm tắt nội dung tài liệu: Thực trạng giảng dạy tiếng Trung cho học sinh Trung học phổ thông ở khu vực phía Nam đáp ứng yêu cầu đổi mới dạy và học ngoại ngữ trong hệ thống giáo dục quốc dân
biết mục tiêu, nội dung dạy tiếng Trung cho HS”, “Các kỹ năng làm bài thi tiếng Trung cho HS” và “Những tri thức tâm sinh lý HS” có ĐTB lần lượt là 3,3; 3,2; 3,1, đều ứng với mức “trung bình”. Ba yếu tố vừa nêu được xem là “thành phần” quan trọng không thể thiếu đối với năng lực của người giáo viên trong việc góp phần tạo nên thành công của một tiết dạy. Ba nội dung kiến thức còn lại có ĐTB rơi vào mức “yếu” và đây là một thực trạng rất đáng quan tâm; thiết nghĩ các nhà quản lý cần có những biện pháp thích hợp để tác động nâng cao những kiến thức về cách tổ chức hoạt động học tiếng Trung qua trò chơi, đánh giá hoạt động học cũng như các kỹ thuật dạy tiếng Trung cho HS. Phân tích đánh giá của nhóm khách thể HS cho thấy, có 3/8 nội dung đưa ra khảo sát được HS đánh giá ở mức “khá” gồm: “Những tri thức tâm sinh lý HS”, “Có kiến thức đánh giá hoạt động học tiếng Trung của HS” và “Có hiểu biết tổ chức hoạt động học tiếng Trung qua trò chơi” với ĐTB lần lượt là 3,8; 3,8; 3,5. Sự khác biệt trong đánh giá giữa hai nhóm khách thể cũng chủ yếu là ở ba nội dung này. Các nội dung còn lại đều rơi vào mức “trung bình” với ĐTB dao động từ 3,2 đến 3,4. Liệu rằng, vốn kiến thức cơ bản hạn chế thế này sẽ ảnh hưởng như thế nào đến hiệu quả quá trình dạy và học ngoại ngữ? Kết quả này cũng cho phép đòi hỏi người lãnh đạo cần quan tâm hơn nữa đến công tác đào tạo, bồi dưỡng kiến thức cho đội ngũ giáo viên tham gia giảng dạy tiếng Trung ở đơn vị mình một cách sâu sắc và liên tục. SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 62 (02/2019) 8 2.2.2. Kỹ năng của đội ngũ giảng viên tiếng Trung ở khu vực phía Nam Bảng 3: Thực trạng về một số kỹ năng cơ bản của ĐNGV tiếng Trung TT NỘI DUNG Tỷ lệ % (CB-GV) ĐTB (CB- GV) ĐTB (HS) Tốt Khá Trung bình Yếu Kém 1 Lập kế hoạch dạy học 60,5 37,2 2,3 0,0 0,0 4,6 4,0 2 Soạn giáo án 65,1 34,9 0,0 0,0 0,0 4,7 4,2 3 Quản lý lớp học 9,3 23,3 67,4 0,0 0,0 3,4 4,4 4 Giao tiếp, ứng xử với HS, đồng nghiệp, phụ huynh, 25,6 69,8 4,7 0,0 0,0 4,2 3,6 5 Giải quyết vấn đề trong dạy học 27,9 53,5 18,6 0,0 0,0 4,1 3,1 6 Quản lý cảm xúc trong dạy học 4,7 25,6 65,1 4,7 0,0 3,3 2,8 7 Quản lý công việc 9,3 37,2 51,2 2,3 0,0 3,5 2,7 8 Nắm bắt tâm lý HS THPT 2,3 11,6 60,5 25,6 0,0 2,9 2,8 9 Tư duy sáng tạo trong dạy học 2,3 32,6 51,2 14,0 0,0 3,2 2,9 ĐTB chung 3,77 3,39 ĐTB chung về đánh giá của CB-GV và HS lần lượt là 3,77 và 3,39, ứng với mức “khá” và mức “trung bình” theo thang đo đã xác lập. Như vậy, sự đánh giá của hai nhóm khách thể có sự khác biệt rất rõ nét. Phân tích sự đánh giá của nhóm khách thể CB-GV cho thấy, kỹ năng “Soạn giáo án” được đánh giá là tốt nhất với ĐTB = 4,7 và kỹ năng kế đến “Lập kế hoạch dạy học” có ĐTB = 4,6; cả hai đều ở mức “tốt”. Tính chung từ 97,7% - 100% GV ở khu vực phía Nam có kỹ năng soạn giáo án và lập kế hoạch dạy học ở mức khá, tốt và đây là một tín hiệu đáng khích lệ. Các kỹ năng tiếp theo “Giao tiếp, ứng xử với HS, đồng nghiệp, phụ huynh,”, “Giải quyết vấn đề trong dạy học”, “Quản lý công việc” có ĐTB lần lượt là 4,2; 4,1 và 3,5 đều ứng với mức “khá”. Kết quả này cần được ghi nhận và phát huy hơn nữa. Các kỹ năng còn lại ở mức “trung bình”; trong đó, kỹ năng “Nắm bắt tâm lý HS THPT” ở mức thấp nhất với ĐTB = 2,9. Đây là hạn chế cần được các nhà quản lý cũng như cán bộ giảng dạy trường đại học đào tạo đội ngũ này quan tâm và khắc phục. Phân tích sự đánh giá của nhóm khách thể HS cho thấy, chỉ có kỹ năng “Quản lý lớp học” ở mức “tốt” với ĐTB = 4,4 và đối chiếu với đánh giá của nhóm khách thể CB- GV thì ở đây có sự khác biệt rất rõ nét. Sự khác biệt này đòi hỏi người lãnh đạo cần lưu tâm đến kỹ năng quản lý lớp học của GV tiếng Trung. Các kỹ năng “Soạn giáo án”, “Lập kế hoạch dạy học” và “Giao tiếp, ứng xử với HS, đồng nghiệp, phụ huynh,” có ĐTB tìm được lần lượt là 4,2; 4,0; 3,6, đều ứng với mức “khá”. Với kết quả này có thể nhận định nhận định rằng, GV tiếng Trung ở khu vực phía Nam cơ bản đã có kỹ năng soạn giáo án, lập kế hoạch bài dạy và giao tiếp ứng xử khá tốt. Các kỹ năng còn lại được đánh giá ở mức “trung bình” với ĐTB dao động từ 2,8 đến NGUYỄN THỊ MINH HỒNG và cộng sự TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN 9 3,1. Trong đó, các kỹ năng “Quản lý cảm xúc trong dạy học”, “Nắm bắt tâm lý HS THPT” và “Tư duy sáng tạo trong dạy học” có số liệu đánh giá tương đồng với nhóm khách thể CB-GV. Đây là những kỹ năng còn hạn chế trong năng lực của đội ngũ giáo viên tiếng Trung, đòi hỏi phải có biện pháp tác động để cải thiện. 2.2.3. Việc thực hiện các yêu cầu về nội dung giảng dạy tiếng Trung cho học sinh trung học phổ thông Bảng 4: Thực trạng thực hiện các yêu cầu về nội dung giảng dạy Tiếng Trung TT NỘI DUNG Tỷ lệ HS (%) ĐTB (HS) ĐTB (CB- GV) Cao Khá cao Trung bình Thấp Rất thấp 1 Các nội dung chuyên biệt về ngôn ngữ: ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp, chức năng, diễn ngôn trong tiếng Trung 35,5 64,5 0 0 0 4,4 4,8 2 Các kỹ năng của ngôn ngữ Trung: nghe, nói, đọc, viết 28,0 71,5 0,5 0 0 4,3 3,8 3 Cách học ngoại ngữ hiệu quả, chiến lược học tiếng Trung 40,0 60,0 0 0 0 4,4 4,2 4 Các kỹ thuật cần thiết cho các kỳ thi tiếng Trung 31,5 68,5 0 0 0 4,3 4,6 5 Giúp HS phát triển các kỹ năng làm việc nhóm và hiểu về những người khác khi học tiếng Trung 36,5 63,5 0 0 0 4,4 3,4 ĐTB chung 4,36 4,16 ĐTB chung về đánh giá của CB-GV và HS lần lượt là 4,36 đạt mức “cao” và 4,16 ở mức “khá cao” theo thang đo đã xác lập. Nhưng một lần nữa cho thấy có sự khác nhau về điểm số đánh giá giữa hai nhóm khách thể. Điều này có thể lý giải là do sự tiếp cận và nhìn nhận dưới góc độ khác nhau nên đã không có tương đồng trong đánh giá. Phân tích sự đánh giá của nhóm khách thể HS cho thấy, có 3/5 nội dung đưa ra khảo sát có ĐTB = 4,4 và 2/5 nội dung có ĐTB = 4,3 đều đạt mức “cao”. Cách biệt về điểm số giữa các nội dung đưa ra khảo sát không đáng kể (0,1 điểm). Như vậy, nhóm khách thể HS có sự tương đồng khá cao về mức độ đánh giá tất cả các yêu cầu về thực hiện nội dung giảng dạy của đội ngũ giáo viên tiếng Trung. Phân tích sự đánh giá của nhóm khách thể CB-GV cho thấy, có sự phân tán lớn về mức độ đánh giá ở các nội dung: - Mức “cao” có hai yêu cầu gồm “Các hệ thống ngôn ngữ: ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp, chức năng, diễn ngôn trong tiếng Trung” và “Các kỹ thuật cho các kỳ thi tiếng Trung” với ĐTB tìm được lần lượt là 4,8 và 4,6, xếp vị trí thứ 1, 2. - Mức “khá cao” cũng có hai yêu cầu SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 62 (02/2019) 10 gồm “Cách học ngoại ngữ hiệu quả, chiến lược học tiếng Trung” và “Các kỹ năng của ngôn ngữ Trung: nghe, nói, đọc, viết” với ĐTB tìm được lần lượt là 4,2 và 3,8, xếp vị trí thứ 3, 4. - Mức “trung bình” chỉ có một yêu cầu với ĐTB = 3,4 đó là “Giúp HS phát triển các kỹ năng làm việc nhóm và hiểu về những người khác khi học tiếng Trung”. Kết quả đánh giá này cũng khiến chúng tôi trăn trở và thiết nghĩ cần có biện pháp tác động để sớm cải thiện, nâng cao thêm. 2.2.4. Việc thực hiện các yêu cầu về phương pháp giảng dạy tiếng Trung cho học sinh trung học phổ thông Bảng 5: Thực trạng thực hiện các yêu cầu về phương pháp giảng dạy tiếng Trung TT NỘI DUNG Tỷ lệ HS (%) ĐTB (HS) ĐTB (CB- GV) Cao Khá cao Trung bình Thấp Rất thấp 1 Phương pháp nghe - nói: dạy HS khả năng dùng ngoại ngữ để giao tiếp nhưng nghe - nói được ưu tiên hơn đọc - viết 32,0 68,0 0 0 0 4,3 4,5 2 Phương pháp hồi đáp hoàn toàn bằng cơ thể: giúp HS học tiếng Trung thông qua trò chơi, hoạt động không đòi hỏi tạo ra sản phẩm ngôn ngữ, không bị căng thẳng 38,0 62,0 0 0 0 4,4 3,1 3 Phương pháp giúp HS phát huy tính tích cực, tự giác thông qua việc tự phát hiện và tự nhận thức 42,5 57,0 0,5 0 0 4,4 3,7 4 Phương pháp ngữ pháp - dịch: tập trung chủ yếu vào phát triển kỹ năng đọc hiểu, học thuộc từ vựng, dịch văn bản, viết luận và phân tích ngôn ngữ (học để nắm quy tắc ngôn ngữ) 42,5 57,5 0 0 0 4,4 4,9 5 Phương pháp giao tiếp: coi mục tiêu cuối cùng là phát triển kỹ năng giao tiếp/kỹ năng ngôn ngữ, năng lực giao tiếp 31,0 67,0 1,5 0,5 0 4,3 3,4 ĐTB chung 4,36 3,92 ĐTB chung về đánh giá của HS và CB- GV lần lượt là 4,36 ở mức “cao” và 3,92 ở mức “khá cao” theo thang đo đã xác lập. Đây là những tín hiệu khá tích cực nếu xét dưới góc độ thông tin phản hồi, đồng thời cũng là cơ sở quan trọng để tham khảo, đối chiếu nhằm có cách nhìn nhận vấn đề mang tính đa chiều, khách quan hơn. NGUYỄN THỊ MINH HỒNG và cộng sự TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN 11 Phân tích sự đánh giá của nhóm khách thể HS cho thấy, các yêu cầu về phương pháp giảng dạy tiếng Trung được giáo viên THPT thực hiện ở mức “cao” với ĐTB từ 4,3 đến 4,4. Kết quả đánh giá này nói lên rằng, phản hồi của HS cho đội ngũ giảng viên tiếng Trung ở khu vực phía Nam đã thực hiện khá tốt các yêu cầu về phương pháp dạy học. Phân tích kết quả khảo sát CB-GV cho thấy phương pháp ngữ pháp - dịch được đánh giá ở mức cao nhất với ĐTB = 4,9, tiếp đến phương pháp nghe - nói với ĐTB là 4,5. Đây được xem là “điểm sáng” trong việc thực hiện các yêu cầu về phương pháp của đội ngũ giảng viên tiếng Trung. Việc thực hiện các yêu cầu của phương pháp giúp HS phát huy tính tích cực, tự giác thông qua việc tự phát hiện và tự nhận thức được đánh giá với ĐTB = 3,7, ở mức “khá cao”. Hai phương pháp còn lại có ĐTB lần lượt là 3,4 và 3,1 đều đạt mức “trung bình”. Đây là những nội dung liên quan đến việc trang bị cho HS kỹ năng giao tiếp bằng ngôn ngữ và giao tiếp phi ngôn ngữ được CB-GV đánh giá có phần khắt khe hơn, song cũng là tín hiệu đòi hỏi người lãnh đạo, các nhà quản lý để tìm biện pháp cải thiện. 2.2.5. Thực trạng đội ngũ giảng viên tiếng Trung thực hiện các yêu cầu liên quan đến công tác đánh giá học sinh Bảng 6: Thực trạng thực hiện các yêu cầu liên quan đến công tác đánh giá TT NỘI DUNG CB-GV HS Tỷ lệ % Thứ hạng Tỷ lệ % Thứ hạng 1 Đánh giá HS theo các loại điểm số quy định 32,6 4 31,0 4 2 Đánh giá để xây dựng kế hoạch giảng dạy và kịp thời điều chỉnh kế hoạch giảng dạy phù hợp với học tập của HS 20,9 5 18,5 5 3 Đánh giá có sự phối hợp nhiều cách thức đánh giá HS 79,1 1 61,5 1 4 Coi trọng đánh giá sự tiến bộ trong quá trình học của HS 41,9 3 46,5 3 5 Đánh giá HS thường xuyên trong tiết dạy 58,1 2 55,5 2 Kết quả thống kê cho thấy có sự tương đồng về thứ hạng đánh giá giữa CB-GV và HS về việc thực hiện các yêu cầu liên quan đến công tác đánh giá. Tiến hành phân tích cụ thể cho thấy, nội dung “Đánh giá có sự phối hợp nhiều cách thức đánh giá HS” nhận được sự lựa chọn cao nhất từ CB-GV và HS với tỷ lệ lần lượt là 79,1% và 61,5%. Kết quả này nói lên rằng, đa số GV đã có sự phối hợp nhiều cách thức đánh giá HS. Tiếp theo là nội dung “Đánh giá HS thường xuyên trong tiết dạy” với tỷ lệ lựa chọn của hai nhóm lần lượt là 58,1% và 55,5%. Kết quả trên cho thấy, có hơn ½ GV tiếng Trung ở THPT thực hiện đánh giá HS thường xuyên trong tiết dạy và điều này chỉ làm chúng ta yên tâm phần nào song chưa đạt mức mong đợi. Đứng vị trí thứ 3 là nội dung “Coi trọng đánh giá sự tiến bộ trong quá trình học của HS” với tỷ lệ lựa chọn lần lượt là 41,9% và SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 62 (02/2019) 12 46,5%. Kết quả này thật sự khiến chúng tôi lo lắng, bởi liệu rằng con số hơn ½ GV tiếng Trung THPT ở khu vực phía Nam chưa coi trọng đánh giá sự tiến bộ trong quá trình học tập của HS, đã ảnh hưởng như thế nào đến chất lượng giáo dục và đặc biệt là trong việc xác định năng lực của HS. Hai yêu cầu còn lại được đánh giá ở mức hạn chế nhất với tỷ lệ lựa chọn chỉ từ 18,5% đến 32,6%. Rõ ràng chưa đến 1/3 mẫu GV tiếng Trung THPT ở khu vực phía Nam đảm bảo việc thực hiện đánh giá HS theo các loại điểm số quy định, đánh giá để xây dựng kế hoạch giảng dạy và kịp thời điều chỉnh kế hoạch giảng dạy phù hợp với học tập của HS. Thực tế này là một điều đáng suy ngẫm, vì công tác đánh giá HS thiếu đồng bộ sẽ ảnh hưởng như thế nào đến chất lượng dạy và học tiếng Trung ở THPT? 3. Kết luận Những kết quả nghiên cứu trên đây cho phép nhận định, việc thực hiện các yêu cầu về nội dung, phương pháp giảng dạy và công tác đánh giá của ĐNGV tiếng Trung ở một số tỉnh thành khu vực phía Nam đạt được những kết quả nhất định. Tuy nhiên để đáp ứng yêu cầu đổi mới dạy và học ngoại ngữ trong hệ thống giáo dục quốc dân, các nhà quản lý giáo dục cần quan tâm hơn nữa đến việc giúp HS phát triển các kỹ năng làm việc nhóm và hiểu về những người khác khi học tiếng Trung; phương pháp giao tiếp và phương pháp hồi đáp bằng cử chỉ điệu bộ; đánh giá HS theo các loại điểm số quy định và đánh giá để xây dựng kế hoạch giảng dạy và kịp thời điều chỉnh kế hoạch giảng dạy phù hợp với học tập của HS. Kết quả nghiên cứu còn cho thấy cần khắc phục một số hạn chế về kiến thức tổ chức hoạt động học tiếng Trung qua trò chơi, đánh giá hoạt động học và các kỹ thuật dạy học tiếng Trung cho HS và kỹ năng nắm bắt tâm lý HS THPT, quản lý cảm xúc trong dạy học và tư duy sáng tạo trong dạy học. Đây là cơ sở quan trọng để đề xuất các biện pháp phát triển đội ngũ giáo viên tiếng Trung nhằm đáp ứng nhu cầu từ thực tiễn. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Bộ Giáo dục và Đào tạo, Quyết định số 1400/QĐ-BGDĐT ngày 08/4/2011 về thành lập Ban Quản lý Đề án “Dạy và học ngoại ngữ trong hệ thống giáo dục quốc dân giai đoạn 2008-2020”, 2011. 2. Thủ tướng Chính phủ, Quyết định số 1400/QĐ-TTg ngày 30/9/2008 về phê duyệt Đề án “Dạy và học ngoại ngữ trong hệ thống giáo dục quốc dân” (gọi tắt là đề án ngoại ngữ 2020), 2008. 3. Đặng Quốc Bảo, Một số khái niệm về quản lý giáo dục, Trường quản lý cán bộ GD&ĐT Trung ương I, 2010. 4. Trần Khánh Đức, Giáo dục và phát triển nguồn nhân lực trong thế kỷ XXI, Nxb Giáo dục Việt Nam, 2014. 5. Bùi Minh Hiền (Chủ biên), Quản lý Giáo dục, Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội, 2006. 6. Trần Bá Hoành, Vấn đế giáo viên - Những nghiên cứu lý luận và thực tiễn, Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội, 2006. 7. Trần Kiểm, Khoa học quản lý giáo dục một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb Giáo Dục, 2004. 8. Trần Kiểm, Giáo trình Quản lý giáo dục và trường học, Viện khoa học Giáo dục, Hà Nội, 1997. 9. Đặng Thị Nhâm, Thực trạng và giải pháp phát triển đội ngũ giáo viên trung học phổ thông tại Tỉnh Bình Thuận, Luận văn thạc sĩ giáo dục học, trường Đại học Sư phạm TP. HCM, 2008. 10. Huỳnh Văn Sơn và Hoàng Văn Cẩn, Phát triển đội ngũ giáo viên đáp ứng nhu cầu giáo dục mầm non ở TP.HCM, đề tài KH&CN cấp Bộ năm 2013, mã số B2012.19.08, 2013. Ngày nhận bài: 17/01/2019 Biên tập xong: 15/02/2019 Duyệt đăng: 20/02/2019
File đính kèm:
- thuc_trang_giang_day_tieng_trung_cho_hoc_sinh_trung_hoc_pho.pdf