Thơ tượng trưng Pháp: Đặc điểm và ảnh hưởng đối với phong trào thơ mới ở Việt Nam
Thơ tượng trưng là một trường phái thơ hiện đại ra đời đầu tiên ở Pháp năm 1886. Các nhà thơ
tượng trưng đề cao quan niệm tương giao các giác quan, cảm nhận thế giới bằng trực giác, thiên
về dùng biểu tượng, ẩn dụ để gợi cảm xúc chứ không mô tả cụ thể. Thơ tượng trưng là sự sáng tạo
về ngôn từ, mang đậm tính nhạc và luôn chứa đựng những yếu tố huyền bí về một thế giới vô hình.
Tư tưởng và phong cách của các nhà thơ tượng trưng Pháp đã thổi một luồng gió mới cho phong
trào Thơ Mới ở Việt Nam. Việc nghiên cứu trường phái thơ tượng trưng Pháp và những ảnh hưởng
đối với thơ ca Việt Nam hiện đại những năm đầu thế kỷ XX giúp người học hai ngôn ngữ, hai nền
văn hóa có cái nhìn tổng quan về thơ tượng trưng, về sự giao thoa ngôn ngữ-văn hóa Việt Nam và
Pháp trong một khúc ngoặt của dòng chảy lịch sử.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Tóm tắt nội dung tài liệu: Thơ tượng trưng Pháp: Đặc điểm và ảnh hưởng đối với phong trào thơ mới ở Việt Nam
n giáo, là ngôn ngữ tượng trưng cho cuộc đời. Ông tìm kiếm một thứ ngôn ngữ toàn diện, mới mẻ, xa lạ với ngôn ngữ thông thường, tựa như bùa chú, cho phép diễn tả điều cốt lõi. Để minh họa cho thứ ngôn ngữ thần thánh đó, khi thì Mallarmé chọn cách chơi vần độc, vần lạ kiểu như trong bài Móng vuốt trong sạch (Ses purs ongles): onyx, Phénix, ptyx, Styx, nixe, fixe, lampadophore, amphore, sonore, s’horore, or, décor, encore, septuor, nhằm tạo nên một không gian thần bí với đuốc, phượng hoàng, vò cổ, vàng, mã não, thủy thần; lúc phá cách về ngữ pháp bằng cách ngắt tưởng chừng như vô lý chủ ngữ và động từ của câu (Quel sépulcral naufrage, tu/Le sais, écume, mais y baves) trong bài thơ Trên đám mây trĩu nặng, em (À la nue accablante, tu); có khi lại dựa vào những khoảng trống tạo hình từ việc trình bày thả lỏng theo kiểu ziczac mô phỏng nội dung như trong bài thơ May rủi (Un coup de dés jamais n’abolira le Hasard) Sự sáng tạo về ngôn từ ở các nhà thơ tượng trưng Pháp còn cho độc giả được thưởng thức những hình ảnh đẹp và mới lạ. Cùng là mùi hương nhưng tùy theo tâm trạng mà được cảm nhận khác nhau. Nếu như trong bài Tương hợp (Correspondances), Charles Beaudelaire gợi lên những mùi hương mát như da thịt trẻ con, ngọt ngào như tiếng sáo, xanh mượt như cỏ non: “II est des parfums frais comme des chairs d’enfants,/ Doux comme les hautbois, verts comme les prairies,” thì trong Khúc chiều tà (Harmonie du soir), nhà thơ lại tả hương hoa như hương trầm qua hình ảnh ví von hoa nở như lư trầm ngút khói hương: “Chaque fleur s’évapore ainsi qu’un 52 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 4 - 11/2016 v VĂN HÓA - VĂN HỌC encensoir ;”. Cũng trong Khúc chiều tà, Beaudelaire đã vẽ lên một cảnh hoàng hôn đỏ rực, buồn sâu lắng qua những hình ảnh so sánh, nhân hóa đầy táo bạo: Tiếng dương cầm run rẩy như trái tim sầu não; bầu trời đẹp và buồn như một hương án khổng lồ; mặt trời ngút trong biển máu đặc quánh. “Le violon frémit comme un coeur qu’on afflige, Un coeur tendre, qui hait le néant vaste et noir! Le ciel est triste et beau comme un grand reposoir; Le soleil s’est noyé dans son sang qui se fige.” Với những nét đặc trưng về nội dung và nghệ thuật độc đáo nêu trên, thơ tượng trưng đã thổi luồng gió mới vào thi đàn Pháp, góp phần tạo nên cuộc cách mạng trong văn học Pháp những năm cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX. 4. ẢNH HƯỞNG CỦA THƠ TƯỢNG TRƯNG PHÁP ĐỐI VỚI PHONG TRÀO THƠ MỚI Ở VIỆT NAM THẾ KỶ XX Đầu thế kỷ XX, văn học Pháp du nhập vào Việt Nam với một khối lượng tác phẩm dịch tương đối đồ sộ. Các nhà văn, nhà thơ lớn thời kì này phần lớn được đào tạo từ các trường Pháp-Việt; một số du học từ Pháp trở về như Vũ Đình Liên, Hoàng Ngọc Phách, Chế Lan Viên, Khái Hưng, Nhất Linh, Nguyễn Mạnh Tường... Cùng với những bài thơ ngụ ngôn của La Fontaine, những vở kịch của Molière, tiểu thuyết của Alexandre Dumas, Victor Hugo, Honoré de Balzac, những thi phẩm nổi tiếng của các nhà thơ lãng mạn và tượng trưng Pháp cũng theo làn sóng tràn vào Việt Nam, tạo nên một sự khởi sắc cho phong trào Thơ Mới ở nước ta. Nếu như thơ Thế Lữ chịu ảnh hưởng của trường phái lãng mạn Pháp (Chateaubriand, Lamartine, Musset) thì nhiều nhà thơ như Xuân Diệu (1916-1985), Huy Cận (1919-2005), Chế Lan Viên (1920-1989), Hàn Mặc Tử (1912-1940), Bích Khê (1916-1946) ở các mức độ đậm nhạt khác nhau đều chịu ảnh hưởng của trường phái tượng trưng. 4.1. Ảnh hưởng về quan điểm mỹ học, thi ca và chủ đề sáng tác Quan niệm mỹ học và thi ca của các nhà thơ tượng trưng Pháp in dấu rất rõ trong các sáng tác của các nhà thơ mới Việt Nam. Dấu ấn về sự tương giao, tương hợp của vạn vật trong vũ trụ, của các giác quan trong Thơ Mới khá rõ nét Đó là sự hòa hợp giữa các loại cảm giác trong thơ của Bích Khê: Nàng hé môi ra. Bay điệu nhạc; Mát như xuân mà ngọt tựa hương (Hiện hình); Nàng bước tới như sông trăng chảy ngọc; Như nắng thơm hớp đặc cả nguồn hương (Nàng bước tới); Có gì uyển chuyển trong da thịt; Nức một đường thơm một điệu êm (Châu) Hòa hợp đến độ khó có thể tách bạch đâu là hương thơm, màu sắc, âm thanh bởi tất cả đã tạo thành một khối, dệt nên những hình ảnh, điệp ngữ, liên tưởng trùng phức đầy ám gợi và mê hoặc như trong Mộng cầm ca: “Trăng gây vàng, vàng gây lên sắc trắng/ Của gương hồ im lặng tợ bài thơ/ Chân nhịp nhàng, lòng nghe hương nặng nặng/ Đây bài thơ không tiếng của đêm tơ/ Trăng gây vàng, vàng gây lên sắc trắng/ Của hồn thu đi lạc ở trong mơ.” Thế giới được gợi ra trong Thơ Mới là một thế giới bí ẩn, huyền diệu. Thế giới của âm nhạc, của màu sắc, của mùi hương. Không phải vô cớ mà Thơ Mới viết nhiều về đề tài âm nhạc như vậy. Bích Khê có tuyển tập Nhạc và Lệ với Mộng cầm ca, Tỳ bà, Nhạc, Thi vị còn Xuân Diệu lại vẽ lên thế giới của thơ và nhạc với Nhị hồ, Nguyệt cầm, Huyền diệu: “Hãy tự buông cho khúc nhạc hường Dẫn vào thế giới của Du Dương Ngừng hơi thở lại, xem trong ấy Hiển hiện hoa và phảng phất hương...” (Huyền diệu - Xuân Diệu) Trong cái thế giới ấy, Thi sĩ, bằng trực giác tinh tế của mình cảm nhận đến tận cùng sự giao hòa của vũ trụ, của vạn vật để rồi đôi lúc lại thấy cô đơn, lạc lõng giữa cuộc đời. Về điểm này, xin được trích lời đề tựa của Chế Lan Viên cho tập thơ Điêu tàn của ông: “Hàn Mặc Tử nói: Làm thơ tức là điên. Tôi thêm: Làm thơ là sự phi thường. Thi sĩ không phải là Người. Nó là Người Mơ, Người Say, Người Điên. Nó là Tiên, là Ma, là Quỷ, là Tỉnh, là Yêu. Nó thoát Hiện Tại. Nó xối trộn Dĩ Vãng. Nó ôm trùm Tương Lai.” Chúng ta có thể thấy tuy sống cách xa nhau một thế kỉ và thuộc hai dân tộc khác nhau nhưng trên bối cảnh xã hội có phần tương đồng nên các nhà thơ tượng trưng Pháp và các nhà thơ mới Việt Nam mang tâm trạng giống nhau. Đó là tâm trạng của những người trí thức tiểu tư sản trước những biến đổi lớn lao của xã hội, cảm thấy mình bất lực chán nản trước thời cuộc. Dễ dàng thấy sắc màu thơ tượng trưng Pháp trong chủ đề sáng tác của Thơ Mới: Chế Lan Viên với tập thơ Điêu tàn ngập tràn Trăng, Mộng, Cái sọ người, Mồ không, Những nấm mồ, Xương khô, Đám ma, Đầu rơi, Xương vỡ máu trào, Hồn trôi, Bóng tối, Đêm tàn, Đêm xuân sầu, Mơ trăng, Tắm trăng, Ngủ trong sao; Hàn Mặc Tử với tập thơ Hương thơm, 53KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 4 - 11/2016 VĂN HÓA - VĂN HỌC v Mật đắng, Máu cuồng và hồn điên; Huy Cận với Buồn, Buồn đêm mưa, Chiều xưa, Chết, Bi ca, Tràng Giang Xuân Diệu có Buồn trăng, Bến đêm biếc, Chiều, Chiều đầu thu, Thu, Đây mùa thu tới, Ý thu, Huyền Diệu, Anh đã giết em còn Bích Khê nổi tiếng với tập thơ Tinh huyết đầy rẫy Sọ người , Nấm mộ, Giờ trút linh hồn, Hiện hình, Mộng, Xuân tượng trưng, Mơ tiên 4.2. Ảnh hưởng trên bình diện nghệ thuật Cùng với sự tiếp thu quan điểm mỹ học của trường phái tượng trưng, các nhà thơ của phong trào Thơ Mới Việt Nam thiên về sử dụng phép ẩn dụ, gợi nhiều hơn tả. Nếu như ảnh hưởng của thơ tượng trưng trong Đây mùa thu tới của Xuân Diệu là sự “thức nhọn giác quan” để cảm nhận cái bước chuyển mùa rất cụ thể, sinh động với “Rặng liễu đìu hiu đứng chịu tang/ Tóc buồn buông xuống lệ ngàn hàng. Đây mùa thu tới, mùa thu tới./ Với áo mơ phai dệt lá vàng.” thì trong Tỳ bà, Bích Khê lại đi vào phía tiềm ẩn của mùa thu, tiến đến một biểu tượng “vàng” trực giác bằng ý niệm: “Ô hay buồn vương cây ngô đồng Vàng rơi! Vàng rơi! Thu mênh mông”. Bức tranh thu ở đây không được vẽ bằng hình ảnh cụ thể nào mà được gợi lên bằng một khối vàng bao trùm lên hết thảy, nhuốm chìm cả “cây ngô đồng” trong nỗi “buồn vương”. Đó không phải là nàng thu với vóc hình cụ thể mà là nàng thu mơ hồ trong ý niệm: “Thu mênh mông”. Đều chịu ảnh hưởng của chủ nghĩa tượng trưng nhưng thu của Xuân Diệu được cảm nhận bằng trực cảm, nhấn vào sự tương hợp của các giác quan còn thu trong thơ Bích Khê là thu của trực giác, thu trong ý niệm, mơ hồ, huyền ảo. Rồi cùng là tả màu xanh, trong khi Hàn Mặc Tử ví“Vườn ai mướt quá, xanh như ngọc” (Đây thôn Vĩ Dạ) hay Xuân Diệu tả “Đổ trời xanh ngọc qua muôn lá” (Thơ duyên) thì Bích Khê chỉ gợi lên một màu của trực giác, mang tính biểu tượng trong bài Hoàng hoa: “màu lưng chừng trời”, “màu phơi nơi nơi”. Tóm lại là một loại màu tượng trưng, tinh tế, huyền diệu không thể vẽ lại bằng hội họa. Rõ ràng sắc thái ảnh hưởng của chủ nghĩa tượng trưng ở các nhà thơ mới có những nét khác biệt trong tương đồng. “Xuân Diệu đứng cả hai chân vững vàng ở bờ lãng mạn với tay hái những chùm tượng trưng, Hàn Mặc Tử thì cả hai chân cũng đứng vững trên nền của chủ nghĩa lãng mạn, nhưng hai chân cứ nhún nhảy [] một cách điệu nghệ với tượng trưng, siêu thực [] Còn Bích Khê thì một chân trụ vững ở bờ chủ nghĩa lãng mạn nhưng một chân kia đã đưa sang và gần chạm đến bờ tượng trưng chủ nghĩa một cách có chủ ý, ngay từ đầu cầm bút.” (Mai Bá Ấn, 2011) Một điểm tương đồng nữa trong thơ tượng trưng Pháp và Thơ Mới, đó là tính nhạc. Xin được dẫn bài Hoàng hoa của Bích Khê làm minh chứng: Ở Hoàng hoa, cũng như Tỳ bà, chất nhạc bao trùm lên toàn bài thơ ba khổ sáu câu, bảy chữ toàn vần bằng. Nhạc tính ở đây còn được Bích Khê “kí âm” bằng kiểu lặp ngữ, lặp từ, lặp vần thường thấy trong âm nhạc (“Đây mùa hoàng hoa, mùa hoàng hoa”, rồi “Ngàn khơi, ngàn khơi, ta, ngàn khơi”) hoặc những câu đầy âm vang (“Làm mây theo chàng lên yên nhung”, “Non yên tên bay ngang muôn đầu”, “Ai xây mồ hoa chôn đời tươi”)... Cách ngắt nhịp trong toàn bài thơ cũng góp phần làm đậm thêm chất nhạc: Lấy nhịp 2/2/3 làm “tiết tấu” chủ đạo (chủ âm) ở ngay khúc dạo đầu; xen kẽ một vài tiết tấu lạ nhịp 4/3, 2/2/1/2, 2/5 rồi lại trở về hợp âm chính theo nguyên tắc của nhạc. Đọc bài thơ mà ngỡ như đang hát. Muốn hát nhưng đó lại là thơ. Ấy chính là thơ tượng trưng. Cuối cùng, không thể không kể đến những đóng góp của phong trào Thơ Mới trong việc cách tân thi ca, từ việc đi khai phá những chủ đề mới lạ với một nhãn quan mới lạ đến việc giải phóng ngòi bút cho ra đời những tứ thơ cũng không kém phần mới lạ. Chịu ảnh hưởng của Mallarmé về cú pháp, với ý thức cách tân, Bích Khê không thôi tìm tòi và sáng tạo, đưa ngôn ngữ thơ lại gần hơn những bộ môn nghệ thuật khác. “Đường kiến trúc nhịp nhàng theo điệu mới Của lời thơ lóng đẹp. Hạt châu trong Hạt châu trong ngời nhỏ giọt vô lòng Tràn âm hưởng như chiều thu sóng nắng” (Duy Tân) Ngoài kiến trúc là là mỹ thuật: “Hỡi hội họa đến muôn đời nức nở.”; là điêu khắc: “Chữ điêu khắc, tỉa nghệ thuật sâu câm - Đầy thẩm mỹ như một pho thần tượng”; là âm nhạc: “Ròng âm nhạc của lòng trai ấp mái”; là vũ đạo: “Múa song song khiêu vũ dưới đêm hồng”; là nhiếp ảnh: “Đường nhiếp ảnh sắc khua màu”. Cũng trong Duy tân, Bích Khê đã tạo sự phá cách về lối trình bày thơ với những khoảng trống phảng phất chất Mallarmé trong bài thơ May rủi. 54 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 4 - 11/2016 v VĂN HÓA - VĂN HỌC “Mộng? Thiên tài? Trên hỗn độn khỏa thân. Đẹp tỷ mỷ, hỡi rung động truyền thần.” Sự sáng tạo về ngôn từ, cú pháp của các nhà thơ mới mang dấu ấn thơ tượng trưng Pháp khá rõ nét. Ở Xuân Diệu, đó là việc Việt hóa những cấu trúc, những cách diễn đạt phương Tây “plus d’un/une” (hơn một), “voilà” (này đây), voici (này kia), “c’est” (đó là/đây là): “Hơn một loài hoa đã rụng cành Trong vườn sắc đỏ rũa màu xanh” (Đây mùa thu tới) “Của ong bướm này đây tuần trăng mật; Này đây hoa của đồng nội xanh rì; Này đây lá của cành tơ phơ phất; Của yến anh này đây khúc tình si. Và này đây ánh sáng chớp hàng mi; Mỗi sáng sớm, thần vui hằng gõ cửa;” (Vội vàng) Là người tiếp thu nhuần nhuyễn phép tương giao của lối thơ tượng trưng Pháp, Xuân Diệu đã phát huy triệt để sự tương giao về cảm giác để cảm nhận và mô tả thế giới bằng đầy đủ các giác quan. Những tứ thơ lạ ra đời từ đó: “Mùi tháng năm đều rớm vị chia phôi”, “Tháng Giêng ngon như một cặp môi gần”, “Này lắng nghe em khúc nhạc thơm/ Say người như rượu tối tân hôn;”,“Ta muốn ôm/ Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn;/ Ta muốn riết mây đưa và gió lượn,/ Ta muốn say cánh bướm với tình yêu,/ Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều/ Và non nước, và cây, và cỏ rạng,/ Cho chếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng/ Cho no nê thanh sắc của thời tươi;/ - Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi!” Nhiều tứ thơ của Beaudelaire cũng truyền cảm hứng cho các nhà thơ mới Việt Nam. Bài Đi giữa đường thơm của Huy Cận chẳng phải đã mượn tứ thơ của Beaudelaire đó sao: “Đường trong làng: hoa dại với mùi rơm.../ Người cùng tôi đi dạo giữa đường thơm,/ Lòng giắt sẵn ít hương hoa tưởng tượng./ [] Lên bề cao hay đi xuống bề sâu?/ Không biết nữa - Có chút gì làm ngợp/ Trong không khí... hương với màu hòa hợp...” (Les parfums, les couleurs et les sons se répondent.) Hình ảnh hoa nở như đỉnh hương của Beaudelaire (Chaque fleur s’évapore ainsi qu’un encensoir) đã được Bích Khê vận dụng một cách tài tình trong Xuân tượng trưng: “Hồn tôi như đỉnh hương Bốc lên mình thánh giá! Ý xuân mát đến xương Ngậm tuyết phun lã chã.” Tiếp thu quan niệm mới mẻ của Beaudelaire cho rằng cái đẹp không ở trong một thế giới riêng mà nằm ngay trong những điều tầm thường nhất, thậm chí ngay trong cái Ác, cái Xấu, Bích Khê đã biến Sọ người thành: “Ôi khối mộng của hồn thơ chếnh choáng! Ôi buồng xuân hơ hớ cánh đào sương! Ôi bình vàng! ôi chén ngọc đầy hương! Ôi hồ nguyệt đọng nhiều trăng lấp loáng! Ôi thần tình! Người chứa một trời thương.” Người đọc như thả hồn trong thế giới Sọ người của Bích Khê với “khối mộng”, “hồn thơ”, “buồng xuân”, “cánh đào sương”, “bình vàng”, “chén ngọc”, “hồ nguyệt” Tất cả gợi lên bóng dáng của một thế giới thần tiên, đầy “một trời thương”, xua tan mọi cảm giác sợ hãi về sự vật được miêu tả. Sự “vay mượn” này cũng dễ hiễu khi trong bài thơ Ăn mày, Bích Khê đã gọi tên Charles Baudelaire với sự ngưỡng vọng và niềm tôn kính sâu xa: Baudelaire! Người là Vua Thi Sĩ! Cho xin trụm bao nhiêu mùi thi vị, Phả hơi lên, truyền nhiễm thấu trần ai Sức ảnh hưởng của các nhà thơ tượng trưng Pháp cũng đi vào thơ Xuân Diệu trong bài Tình trai: “Tôi nhớ Rimbaud với Verlaine Hai chàng thi sĩ choáng hơi men Say thơ xa lạ, mê tình bạn Khinh rẻ khuôn mòn, bỏ lối quen.” Có thể nói, thơ tượng trưng Pháp là nguồn mạch quan trọng góp phần làm đổi mới thơ ca Việt Nam hiện đại trong những thập niên đầu thế kỷ XX, đặc biệt là phong trào Thơ Mới. Tuy nhiên, TS. Trần Huyền Sâm phát hiện: “Mỗi nhà thơ chịu ảnh hưởng của chủ nghĩa tượng trưng ở mỗi phương diện khác nhau, phù hợp với quan điểm thẩm mỹ của mình. Và ngay trong mỗi nhà thơ, tính chất lãng mạn và tượng trưng luôn giao thoa cùng nhau. Xuân Diệu tìm thấy ở chủ nghĩa tượng trưng một bản nhạc huyền diệu giữa ánh sáng, hương thơm và màu sắc. Vũ Hoàng Chương và Bích Khê tìm thấy một thế giới âm nhạc mênh mông, hư ảo. Hàn Mạc Tử tìm trong thế giới vô thức, siêu thực, bí ẩn.” (Trần Huyền Sâm, 2002)
File đính kèm:
- tho_tuong_trung_phap_dac_diem_va_anh_huong_doi_voi_phong_tra.pdf