Tham tụng Hồ Sĩ Dương với những đóng góp nổi bật trong lịch sử Đại Việt thế kỉ XVII

Dưới thời Lê - Trịnh, đặc biệt là giai đoạn vua Lê Hy Tông và chúa Trịnh Tạc nắm

quyền, Hồ Sĩ Dương được nhắc đến là một trong những nhân vật lịch sử tiêu biểu. Với vị trí

là Tham tụng (nắm quyền Tể tướng đương triều), Hồ Sĩ Dương đã để lại những dấu ấn nổi

bật trên các lĩnh vực quân sự, chính trị - bang giao, văn hóa - xã hội và đặc biệt trên phương

diện “cải cách quan chế”. Ông được đánh giá là một danh nhân toàn tài trong lịch sử chính

trường ở Đại Việt thế kỉ XVII. Thông qua các nguồn tư liệu khác nhau từ chính sử, các văn

bản điển chế và pháp luật, tư liệu văn bia (bản dịch), tư liệu dân gian thu thập được, bài viết

này góp phần soi rọi và tô đậm thêm những dấu ấn, đóng góp to lớn của Hồ Sĩ Dương đối

với quê hương Nghệ An nói riêng và lịch sử Đại Việt nói chung.

Tham tụng Hồ Sĩ Dương với những đóng góp nổi bật trong lịch sử Đại Việt thế kỉ XVII trang 1

Trang 1

Tham tụng Hồ Sĩ Dương với những đóng góp nổi bật trong lịch sử Đại Việt thế kỉ XVII trang 2

Trang 2

Tham tụng Hồ Sĩ Dương với những đóng góp nổi bật trong lịch sử Đại Việt thế kỉ XVII trang 3

Trang 3

Tham tụng Hồ Sĩ Dương với những đóng góp nổi bật trong lịch sử Đại Việt thế kỉ XVII trang 4

Trang 4

Tham tụng Hồ Sĩ Dương với những đóng góp nổi bật trong lịch sử Đại Việt thế kỉ XVII trang 5

Trang 5

Tham tụng Hồ Sĩ Dương với những đóng góp nổi bật trong lịch sử Đại Việt thế kỉ XVII trang 6

Trang 6

Tham tụng Hồ Sĩ Dương với những đóng góp nổi bật trong lịch sử Đại Việt thế kỉ XVII trang 7

Trang 7

Tham tụng Hồ Sĩ Dương với những đóng góp nổi bật trong lịch sử Đại Việt thế kỉ XVII trang 8

Trang 8

Tham tụng Hồ Sĩ Dương với những đóng góp nổi bật trong lịch sử Đại Việt thế kỉ XVII trang 9

Trang 9

Tham tụng Hồ Sĩ Dương với những đóng góp nổi bật trong lịch sử Đại Việt thế kỉ XVII trang 10

Trang 10

Tải về để xem bản đầy đủ

pdf 11 trang xuanhieu 4840
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Tham tụng Hồ Sĩ Dương với những đóng góp nổi bật trong lịch sử Đại Việt thế kỉ XVII", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Tham tụng Hồ Sĩ Dương với những đóng góp nổi bật trong lịch sử Đại Việt thế kỉ XVII

Tham tụng Hồ Sĩ Dương với những đóng góp nổi bật trong lịch sử Đại Việt thế kỉ XVII
việc hết 
mình và ý thức công việc nghiêm túc thể hiện trong bài tựa của ông: Bọn thần học thức kém, kiến 
văn hẹp, đâu dám đương việc ấy. Nhưng đã vâng mệnh trên, dám đâu không cố tra xét sách cũ, 
 113 
 Nguyễn Thị Thu Hương 
biên chép thành tập. Mục đích biên soạn sử của ông cũng rất rõ ràng nhằm ghi lại sự thực những 
sự kiện lịch sử để lưu truyền cho muôn đời sau: Tập thực lục này vốn không phải là nói chuyện 
ức đạt và đặt lời văn hoa thêm bớt, mà chỉ căn cứ vào sự thực. Trải qua bao năm tháng, đã soạn 
thành sách rồi dâng lên bề trên và được đặt tên sách là Trung hưng thực lục. Sau đó được in, ban 
bố khắp thiên hạ với một thông điệp rất có ý nghĩa: Việc ghi chép trong cuốn sách để nêu công 
sức mà rõ danh phận, để ngăn tiếm nghịch mà giữ cương thường, tập thực lục này có quan hệ đến 
giáo hóa của đời và căn bản của nước. 
 Những cuốn sách như Đại Việt sử ký bản kỉ tục biên, Trùng san Lam Sơn thực lục, Trung 
hưng thực lục gắn liền với đóng góp của Hồ Sĩ Dương đối với nền sử học nước nhà. Cho đến hiện 
nay những tác phẩm này vẫn là nguồn tài liệu có giá trị đáng tin cậy không chỉ đối với những nhà 
nghiên cứu mà còn đối với những độc giả đam mê, quan tâm đến sử học. 
 Bên cạnh các tác phẩm sử học, Hồ Sĩ Dương còn nhuận chính và soạn các văn bia. Tháng 
9, năm Quý Mão (1663), khi sửa điện Chiêu Sự ở đàn Nam Giao, chúa Trịnh Tạc sai Hồ Sĩ Dương 
nhuận chính văn bia khắc vào đá để ghi lại sự việc này. Sử cũ cho biết: “Trước đây, đàn Nam 
Giao đã có điện nhưng quy mô còn nhỏ hẹp. Đến đây Vương sai làm thêm, nhà chính điện thì cột 
vuông, lát nền bằng đá, trong sàn, ngoài sàn đều xây đá, cột, rường, hoành, rui đều sơn son thếp 
vàng, quy mô chế độ mới mẻ rực rỡ. Vương lại sai từ thần là Hồ Sĩ Dương làm văn khắc vào đá 
để ghi lại việc này” [12; 265; 11; 310]. Năm Giáp Thìn (1664) khi hoàn thành điện Chiêu sự thì 
văn bia cũng được Hồ Sĩ Dương và các triều thần soạn xong với nhan đề Nam Giao điện bi kí 
(được dựng vào năm Vĩnh Trị thứ 4 (1679). Hiện có bản lưu tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm, kí 
hiệu số 161 và đã được dịch trong Tuyển tập văn bia Hà Nội, quyển II [22; 43 – 45]. 
 Hiện nay tấm bia nằm trong quần thể hệ thống trưng bày ngoài trời và không gian tưởng 
niệm tại Bảo tàng Lịch sử Quốc gia. Tấm bia có số đăng ký: LSb.32852. Kích thước: cao 213cm, 
rộng 146cm, dày 34cm, chân đế 214cm x 156cm x 51cm. Bia hình chữ nhật, trán cong hình bán 
nguyệt, đặt trên bệ hình khối hộp chữ nhật ba cấp. Diềm trán bia chạm khắc đề tài lưỡng long 
chầu nguyệt và mây. Diềm xung quanh bia chạm rồng, phượng, mây, hoa mẫu đơn, cúc, băng lá 
đề kép và vân mây hình khánh. Bệ chân đế bia chạm khắc nổi long mã và hoa lá. Mặt trước của 
bia khắc bài minh bằng chữ Hán, do Nguyễn Tiến Triều soạn thảo, Hồ Sĩ Dương nhuận chính. 
 Ngoài ra, Hồ Sĩ Dương còn soạn một số văn bia khác như: Đại Thừa tướng sự nghiệp bi đặt 
tại từ đường Phạm Công Trứ [2; 219 – 228]; Trinh tiết phu tỷ muội bi ký (bia ở Thạch Linh, thị 
xã Hà Tĩnh), Khuông lộc hầu bi ký (xã Xuân Hồng, huyện Nghi Xuân), Tam tòa đại vương miếu 
bi ký (làng Tả Ao, huyện Nghi Xuân) [23; 34]. 
 Trong lĩnh vực văn học, Hồ Sĩ Dương có một số tác phẩm để lại những dấu ấn cho nền văn 
hóa, văn học trung đại Việt Nam. Tác giả Trần Bá Chí trong bài viết “Nguồn gốc Hồ Quý Ly và 
dòng họ Hồ” cho biết: “Ngoài việc giúp nước về mặt chính trị, Hồ Sĩ Dương còn quan tâm đến 
thuần phong mỹ tục của xã hội Đại Việt. Ông bước đầu soạn thảo sách “Hồ Thượng thư gia lễ” 
cho sát với tình hình kinh tế và tập tục Việt Nam, cải cách những sự mô phỏng Tàu quá nhiều, đề 
cao đạo hiếu, lấy đạo hiếu và gia đình làm gốc cho xã hội. Đến đời cháu ông là Hồ Sĩ Tân thì 
cuốn sách đó thực sự hoàn chỉnh và được phổ biến khắp trong nước ta” [24; 17]. Đây được coi 
là tác phẩm tiêu biểu gắn liền với tên tuổi của Hồ Sĩ Dương. 
 Với tài năng trên nhiều phương diện, nên không chỉ về văn học mà ông còn sáng tác một số 
bài thơ: (1) Tiễn Đại Thanh sách sứ Trình Phương Triều (餞 大 清 册 使 程 芳 朝) ; (2) Tiễn 
Sách phong Phó sứ Trương Dịch Bí (餞 册 封 副 使 張 易 賁). Các bài thơ này được Hồ Sĩ 
Dương sáng tác vào năm Đinh Mùi (1667) để tiễn Chánh sứ, Bảng nhãn Trình Phương Triều và Phó 
sứ, Hoàng giáp Trương Dịch Bí nhà Thanh về nước; (3) Hạ quốc lão Yến Quận Công Phạm Công 
Trứ trí sĩ (賀 國 老 燕 郡 公 范 公 著 致 仕), sáng tác năm Mậu Thân (1668) khi Phạm Công 
114 
 Tham tụng Hồ Sĩ Dương với những đóng góp nổi bật trong lịch sử Đại Việt thế kỉ XVII 
Trứ về trí sĩ; Thứ vận hạ quốc lão Phương Quận Công Vũ Duy Chí trí sĩ (次 韻 賀 國 老 方 郡 
公 武 惟 志 致 仕), sáng tác năm Bính Thìn (1676) khi Vũ Duy Chí về trí sĩ [25; 142 – 147]. 
 Như vậy, với những dấu ấn trên phương diện văn hóa xã hội, thể hiện ở các lĩnh vực sử học, 
văn học và sáng tác thơ, Hồ Sĩ Dương đã có nhiều tác phẩm với nội dung và thể loại đa dạng có 
giá trị cho đến hiện nay. 
 Năm Tân Dậu (1681), Hồ Sĩ Dương về trí sĩ ở quê hương, ông đặc biệt quan tâm đến việc 
học tập của con cháu. Để khuyến khích con cháu học tập, ông đã “đặt ruộng học điền”, sách 
Quỳnh Đôi cổ kim sự tích hương biên, có trích từ tấm bia đặt tại từ đường thờ Hồ Sĩ Dương do 
Tiến sĩ Văn Đức Giai soạn năm Tự Đức thứ 7 (1854), cho biết: ông đặt ruộng học điền tại các địa 
phận Bà Re, Cửa Chợ, Đập Bút khoảng 10 mẫu để khuyên con cháu đời đời đi học theo sự nghiệp 
khoa cử [26; 171-172]. Không chỉ Hồ Sĩ Dương mà cả vợ của ông đều chăm lo việc phúc đức, 
làm nhiều điều thiện. Vợ chồng Hồ Sĩ Dương rất quan tâm đến những người phải đi lính bằng 
việc ông bà đã cúng cho làng 22 mẫu ruộng ở xứ Đập Gãy để cấp cho người đi lính, nên được 
mọi người kính trọng và yêu mến [26; 348]. Bên cạnh đó, Hồ Sĩ Dương còn tiếp tục đóng góp 
sức mình vào công việc của quê hương như việc ông đem của cải và ruộng đất được triều đình 
ban tặng để chiêu tập dân lưu tán tập hợp thành 5 thôn đó là Như Bá (nay là xã Quỳnh Bá), Tiên 
Đội (nay thuộc xã Quỳnh Hoa), Mỹ Hòa (nay thuộc xã Quỳnh Mỹ), Thọ Vực (nay thuộc xã Quỳnh 
Thọ), Bảo Yên (nay thuộc Hoàng Mai). Các thôn đều lập miếu thờ tôn ông là Thành hoàng. 
 Năm Nhâm Tuất (1682), tức là một năm sau khi nghỉ hưu, Hồ Sĩ Dương qua đời, ông được 
vua Lê truy tặng chức Thiếu bảo, Thượng thư bộ Hộ, tặng tên thụy là Dĩnh Đạt (穎 達). Ở đền 
thờ ông còn lưu giữ nhiều câu đối, tiêu biểu như: 
 Bát trụ kình thiên Đường bộc xạ (八 柱 擎 天 唐 僕 射) 
 Vạn gia tác phật Tống bình chương (萬 家 作 佛 宋 平 章) [2; 37; 25; 90; 26; 167]. 
 Tạm dịch: Tám cột chống trời, tài giỏi như quan “Bộc xạ” thời Đường/ Làm phật muôn nhà, 
công bằng như quan “Bình chương” đời Tống. Câu đối đó đã thể hiện sự “xem trọng” của vua Lê 
dành cho Hồ Sĩ Dương, ví ông như quan Bộc xạ đời Đường và quan Bình chương đời Tống của 
Trung Quốc. 
 Với những dấu ấn nổi bật, tên tuổi của Hồ Sĩ Dương vượt ra ngoài biên giới quốc gia, được 
sứ thần nhà Thanh ca ngợi. Hai năm sau khi Hồ Sĩ Dương mất, sứ thần nhà Thanh là Chu Xán 
sang Đại Việt ban sắc phong, đã sáng tác tập thơ Sứ Giao ngâm (tập thơ gồm 48 bài thơ vịnh núi 
sông và bè bạn tặng đáp, theo thể thơ thất ngôn tứ tuyệt). Khi về nước, Chu Xán dâng lên vua nhà 
Thanh tập thơ, trong đó có câu khen ngợi tài năng của Hồ Sĩ Dương như sau: “Y quan văn vật 
trọng Nam cương” (câu khen ngợi này có ý rằng nước Nam có nền văn hiến áo mũ đúng lễ nghi 
- TG) và bình luận rằng: “Nhân vật nước này, về phần lí học có Trình Tuyền, Vũ Cảo, Nguyễn 
Đăng Cảo và Hồ Sĩ Dương” [19; 330]. 
3. Kết luận 
 Suốt cuộc đời làm quan và cống hiến không ngừng nghỉ, trải năm triều vua, Hồ Sĩ Dương đã để 
lại những dấu ấn quan trọng trong lịch sử Đại Việt thế kỉ XVII, thể hiện trên cả hai bình diện sau: 
 Thứ nhất, đối với quốc gia: Những dấu ấn trên các lĩnh vực: quân sự, chính trị ngoại giao, 
cải cách quan chế và văn hóa xã hội (sử học, văn học, sáng tác thơ). Về quân sự, Hồ Sĩ Dương 
với chức Đốc thị đã 2 lần Nam chinh (năm 1660, 1661) đánh quân chúa Nguyễn; 2 lần Bắc chiến 
(năm 1667, 1670) đánh quân nhà Mạc. Qua đó cho thấy, Hồ Sĩ Dương là con người đấy nhiệt 
huyết, không quản khó khăn, dù Nam chinh hay Bắc chiến, ông đều hăng hái tham gia, có công 
đối với công cuộc yên Bắc dẹp Nam. Thành quả bước đầu đó, tạo động lực quan trọng giúp ông 
tiếp bước đạt được những dấu ấn “nổi bật” trên lĩnh vực chính trị - bang giao: từ Đô cấp sự trung 
 115 
 Nguyễn Thị Thu Hương 
đến Tham tụng, kinh qua các chức Bồi tụng, Hữu Thị lang bộ Binh, Hữu Thị lang bộ Lại, Thượng 
thư bộ Công; năm lần cùng các quan đại thần lên cửa quan đợi mệnh và một lần làm Chánh sứ 
dẫn đoàn sứ thần sang nhà Thanh thực hiện nhiệm vụ ngoại giao). Đặc biệt, với những dấu ấn nổi 
bật trên phương diện “cải cách quan chế”. Những nội dung xin điều chỉnh, giảm bớt đối tượng 
“phong ấm” được đề cập tương đối đầy đủ và toàn diện, bao quát mọi đối tượng được hưởng, từ 
công thần khai quốc, công thần trung hưng, bách quan văn võnhững điều mà các triều đại trước 
chưa đặt ra được những quy định cụ thể, chi tiết đến như thế. 
 Dấu ấn quan trọng đó, đã mang lại kết quả tích cực, góp phần làm cho triều đại vua Lê Hy 
Tông kỉ cương được chấn hưng, thưởng phạt nghiêm minh, các công khanh phần nhiều xứng 
chức, các quan lại tuân thủ pháp luật, dân chúng yên ổn làm ăn, xứng đáng là triều đại đứng đầu 
thời Lê Trung hưng. Không chỉ trên các lĩnh vực quân sự, chính trị ngoại giao, Hồ Sĩ Dương còn 
để lại những dấu ấn có giá trị đến hiện nay trên lĩnh vực văn hóa xã hội với những tác phẩm sử 
học, văn học và sáng tác thơ, xứng đáng là bậc trí thức tài cao, đức cả. 
 Thứ hai, đối với quê hương: Khi về trí sĩ, ông tiếp tục dành tâm huyết của mình vào công 
việc học hành của con cháu và làm nhiều việc thiện giúp đỡ cho quê hương. 
 Như vậy, với chức trách của một vị quan, Hồ Sĩ Dương đã thực hiện trách nhiệm của mình 
với nước với dân, dành cả cuộc đời cống hiến tài năng và tâm huyết cho quê hương, đất nước. 
Đối với đất nước ông xứng đáng là bậc trung thần, đối với quê hương ông xứng đáng vinh danh 
là đại diện tiêu biểu cho dòng họ Hồ ở Nghệ An – vùng đất địa linh nhân kiệt, nơi mà nhân dân 
Nghệ Tĩnh từ xưa có câu: “Hà Tĩnh họ Phan, Nghệ An họ Hồ”. Có thể dùng bốn chữ “Thái sơn 
Bắc đẩu” để ca ngợi tài năng, đức độ và tấm lòng đối với nước với dân, với quê hương của ông. 
Với những dấu ấn nổi bật, tạo nên những giá trị thiết thực và ý nghĩa lớn lao đó, Hồ Sĩ Dương đã 
thể hiện là một con người với đầy đủ phẩm chất cao quý của một nhân cách lớn, xứng đáng là bậc 
danh nhân chính trị, quân sự, ngoại giao, văn hóa lớn trong lịch sử Đại Việt thế kỉ XVII. 
 TÀI LIỆU THAM KHẢO 
[1] Đinh Văn Minh, 1997. “Tư liệu Hán Nôm tại nhà thờ Phạm Công Trứ ở Liêu Xuyên” in 
 trong Thông báo Hán Nôm năm 1996, tr. 219-228). Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 
[2] Phan Hữu Thịnh (khảo cứu), 2011. Bảng nhãn, tham tụng Duệ quận công Hồ Sĩ Dương. Nxb 
 Nghệ An. 
[3] Vũ Việt Bằng, 2015. “Nghiên cứu thân thế, sự nghiệp của Hồ Sĩ Dương qua tư liệu Hán 
 Nôm”, in trong Thông báo Hán Nôm học, tr.66-71. 
[4] Trịnh Khắc Mạnh (chủ biên), 2018. Hồ Thượng thư gia lễ. Nxb Văn học, Hà Nội. 
[5] Cao Xuân Dục, 2003. Đại Nam dư địa chí ước biên, tập 4. Nxb Văn học, Hà Nội. 
[6] Bùi Dương Lịch, 2018. Nghệ An ký. Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 
[7] Nguyễn Ngọc Nhuận (chủ biên), 2006. Một số điển chế và pháp luật Việt Nam, tập 1 (Từ 
 thế kỉ XV đến XVIII). Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 
[8] Đỗ Văn Ninh, 2005. Từ điển chức quan Việt Nam. Nxb Thanh niên, Hà Nội. 
[9] Phan Huy Chú, 2008. Lịch triều hiến chương loại chí, tập 1. Nxb Giáo dục, Hà Nội. 
[10] Đặng Xuân Bảng, 2000. Việt sử cương mục tiết yếu. Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 
[11] Quốc sử quán triều Nguyễn, 2007. Khâm định Việt sử thông giám cương mục, tập 2. Nxb 
 Giáo dục, Hà Nội. 
[12] Ngô Sĩ Liên và sử thần triều Lê, 1993. Đại Việt sử ký toàn thư, tập 3. Nxb Khoa học xã hội, 
 Hà Nội. 
116 
 Tham tụng Hồ Sĩ Dương với những đóng góp nổi bật trong lịch sử Đại Việt thế kỉ XVII 
[13] Trung tâm Khoa học xã hội và Nhân văn quốc gia, 1997. Tổng tập tiểu thuyết chữ Hán Việt 
 Nam (trích trong tác phẩm Công dư tiệp ký, phần nhân vật Dương Tồn), tập 1. Nxb Thế giới, 
 Hà Nội. 
[14] Trịnh Khắc Mạnh (chủ biên), 2018. Hồ Thượng thư gia lễ. Nxb Văn học, Hà Nội. 
[15] Phan Huy Chú, 2008. Lịch triều hiến chương loại chí, tập 1. Nxb Giáo dục, Hà Nội. 
[16] Đại Việt sử ký toàn thư (phần tiếp - ba tập), 1982. Bản kỉ tục biên (1676 – 1740), tập 1. 
 Nguyễn Kim Hưng và Ngô Thế Long (dịch, chú thích, khảo chứng), Nguyễn Đổng Chi 
 (duyệt và hiệu đính). Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 
[17] Đại Việt sử ký tục biên (1676 - 1789), 1991. Ngô Thế Long - Nguyễn Kim Hưng (dịch và 
 khảo chứng), Nguyễn Đổng Chi (hiệu đính). Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 
[18] Ngô Cao Lãng, 1995. Lịch triều tạp kỉ. Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 
[19] Lê Quý Đôn, 2007. Kiến văn tiểu lục. Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội. 
[20] Phan Huy Chú, 2008. Lịch triều hiến chương loại chí, tập 2. Nxb Giáo dục, Hà Nội 
[21] Lê Lợi kể - Nguyễn Trãi ghi – Hồ Sĩ Dương san định, 1992. Trùng san Lam Sơn thực lục 
 (GS. Trần Nghĩa dịch, chú thích và giới thiệu). Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 
[22] Ban Hán nôm (sưu tầm dịch và giới thiệu), 1978. Tuyển tập văn bia Hà Nội, Quyển II. Nxb 
 Khoa học xã hội, Hà Nội. 
[23] Trần Bá Chí, 1992. “Nguồn gốc Hồ Quý Ly và dòng họ Hồ”. Tạp chí Nghiên cứu lịch sử, số 
 5 (264), tr.13-18, tháng 9 – 10. 
[24] Nguyễn Thanh Tùng (chủ biên), 2013. Nghệ An toàn chí, tập XVII (Văn thơ xứ Nghệ thời 
 trung đại). Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 
[25] Hồ Phi Hội (khởi biên), Hồ Trọng Chuyên (tục biên), Hồ Đức Lĩnh (dịch, biên khảo, bổ sung 
 và tục biên), 2005. Quỳnh Đôi cổ kim sự tích hương biên. Nxb Tổng hợp Thành phố Hồ Chí 
 Minh. 
[26] Lý Minh Tuấn (dịch và bình giải), Nguyễn Minh Tiến (hiệu đính và giới thiệu), 2010. Tứ 
 thư bình giải, Đại học - Chương V (Cách vật trí tri). Nxb Tôn giáo, Hà Nội. 
 ABSTRACT 
 Ho Si Duong – Lord’s grand counsellor – and prominent merits to Dai Viet in 17th century 
 Nguyen Thi Thu Huong, 
 Institute of History, Vietnam Academy of Social Sciences 
 In the Le - Trinh period, particularly under the reign of Emperor Le Hy Tong and Lord Trinh 
Tac, Ho Si Duong was a well-known historical figure. Assuming the position of Tham tụng (参
從), which had equal power to a prime minister (宰相), Ho Si Duong has left eminent marks in a 
range of fields, comprising military, politics, diplomacy, social-culture, especially in the aspect 
of “institutional reform”. He is considered a talented mandarin in the political history of Dai Viet 
(大越) in the seventeenth century. Based on diverse sources, including history written by the 
imperial court, official regulations, the information inscribed on the stela (translated version), folk 
material, the article will shed light on Ho Si Duong’s critical marks and influential contributions 
to his homeland – Nghe An province in particular as well as to the Dai Viet’s history in general. 
 Keywords: Ho Si Duong, Dai Viet (大越), the seventeenth century, grand counsellor, 
institutional. 
 117 

File đính kèm:

  • pdftham_tung_ho_si_duong_voi_nhung_dong_gop_noi_bat_trong_lich.pdf