Thái độ học tập của sinh viên tiếng Trung thương mại và vấn đề chất lượng giảng dạy
Thái độ học tập của người học là một trong những yếu tố đảm bảo chất lượng giảng dạy. Thực tế
giảng dạy đại học cho thấy, nhiều sinh viên còn chưa có thái độ học tập đúng đắn trong quá trình
học tập. Trong bài viết này, chúng tôi làm rõ các vấn đề chất lượng giảng dạy, thái độ học tập và
mối quan hệ của thái độ học tập với chất lượng giảng dạy, đồng thời đưa ra kết quả nghiên cứu
về thái độ học tập của sinh viên chuyên ngành tiếng Trung thương mại tại trường Đại học Ngoại
thương thông qua phương pháp điều tra cơ bản.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Bạn đang xem tài liệu "Thái độ học tập của sinh viên tiếng Trung thương mại và vấn đề chất lượng giảng dạy", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Thái độ học tập của sinh viên tiếng Trung thương mại và vấn đề chất lượng giảng dạy
ng giờ học. Có lúc môn học vốn đã kém hấp dẫn, lại thêm phương pháp giảng dạy của giảng viên tẻ nhạt, không truyền được cảm hứng học tập, không thu hút được sự chú ý của sinh viên, vì thế mà các em lên lớp thiếu đi sự hứng khởi, chỉ chờ điểm danh và mong cho giờ học qua nhanh. Tuy nhiên, bên cạnh các lý do khách quan, bảng khảo sát cũng thu thập được một số lý do chủ quan. Nhiều em sinh viên do ngày đi học kết hợp đi làm thêm, tối về muộn học bài khuya nên thường đến lớp với trạng thái thiếu ngủ, vì vậy sự tập trung cho bài giảng cũng bị giảm sút. Ngoài ra cũng có ý kiến cho rằng, mặc dù sinh viên có ý thức học tập tốt, nhưng nhiều bạn vốn có tính “lơ đãng” nên không thể tập trung quá lâu trong thời gian học ở trên lớp. Vì thế mà nhiều bạn có lúc chăm chú lắng nghe bài giảng, nhưng có lúc lại bị hấp dẫn bởi những âm thanh hoặc sự việc khác xung quanh. Theo kết quả khảo sát, số sinh viên chưa thực sự nghiêm túc trong việc lắng nghe bài giảng trên lớp còn khá cao (43,4%). Sự thiếu tập trung sẽ có những ảnh hưởng không tốt đối với kết quả học tập môn học, nhất là những môn học đòi hỏi có sự tập trung cao, mà sinh viên chỉ lơ là một chút thôi sẽ có thể bỏ lỡ rất nhiều thông tin quan trọng. Cũng từ các ý kiến nói trên của các em sinh viên, chúng tôi thấy rằng ngoài ý thức học tập của bản thân sinh viên thì tỷ lệ sinh viên tập trung chú ý nghe bài giảng cao hay thấp còn phụ thuộc vào nội dung bài học và khả năng truyền nhiệt của giảng viên. Điều đó cho thấy, giảng viên có vai trò vô cùng quan trọng trong việc thu hút sự tập trung chú ý của người học, đặc biệt khi sinh viên không tìm thấy sự hứng thú ở môn học. Song song với việc chú ý nghe giảng thì ghi chép bài giảng là một việc không thể thiếu đối với những người đi học. Đây là cách giúp người học lưu giữ thông tin và kiến thức cần thiết của môn học. Chính vì ngay tại buổi học, người học không thể nhớ hết những nội dung giảng viên trình bày ở trên lớp, do đó người học cần ghi chép lại để về nhà có thể xem, ôn lại những kiến thức đó và cũng để nắm chắc hơn về bài học. Tuy nhiên, việc ghi chép cần phải có phương pháp và nó phụ thuộc vào sự lựa chọn của từng người học, nhưng yêu cầu chung của việc ghi chép là phải chú ý đến tính khoa học, tính rõ ràng thì mới đạt đến các hiệu quả học tập. Đối với nội dung “chăm chỉ ghi chép bài giảng”, số liệu khảo sát của chúng tôi cho biết, có 60,2% sinh viên chăm chỉ ghi chép bài học. Nhưng 39,8% sinh viên cho ý kiến ngược lại, các em không chăm chỉ ghi chép lại những nội dung đã có trong giáo trình và tài liệu mà chỉ ghi chép những nội dung mới, những phần cần chú ý hoặc những vấn đề các em quan tâm. Đây là một cách ghi chép ngắn gọn và tiết kiệm thời gian. Đồng thời, nó cũng giúp các em sinh viên chưa có thói quen vừa ghi chép vừa nghe giảng có nhiều thời gian lắng nghe bài giảng mà khi ghi chép cũng không bỏ sót những kiến thức quan trọng. Bên cạnh việc nghe giảng và ghi chép nội dung bài giảng, việc tương tác với giảng viên không chỉ tạo không khí sôi nổi cho lớp học mà còn giải đáp được rất nhiều vấn đề liên quan đến nội dung bài học. Kết quả khảo sát cho thấy, 49.4% số sinh viên có tinh thần hợp tác với giảng viên. Sự hợp tác của sinh viên thể hiện ở việc chủ động giơ tay phát biểu, đưa ra các ý kiến xây dựng bài học, đưa ra các câu hỏi thắc mắc xung quanh nội dung bài học. Tuy nhiên, vẫn còn nửa số sinh viên (50.6%) chưa thực sự chủ động và tích cực trong việc xây dựng bài học trên lớp cùng giảng viên. Khi được phỏng vấn về vấn đề này, nhiều sinh viên đã đưa ra lý do không hợp tác là vì: Thứ nhất, thái độ học tập hăng hái và tích cực của sinh viên còn phụ 97KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 10 - 11/2017 NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI v thuộc vào mức độ yêu thích môn học, mức độ tập trung trong giờ học, độ khó và số lượng các câu hỏi mà giảng viên đưa ra; Thứ hai, một bộ phận sinh viên có tâm lý ngại phát biểu ý kiến, cũng có trường hợp sinh viên không biết cách biểu đạt và thể hiện ý nghĩ của mình hoặc còn sợ sai nên chưa mạnh dạn, tự tin khi đưa ra ý kiến xây dựng bài học. Có lẽ, đây là vấn đề mà giảng viên cần hết sức chú ý khi lên lớp dạy học. Giảng viên với vai trò là “người tổ chức”, “người điều khiển” trong lớp học nên khuyến khích sinh viên phát biểu ý kiến bằng nhiều hình thức khác nhau để tăng sự hứng thú đối với việc học và cũng để sinh viên cảm thấy thoải mái, tự tin khi đưa ra quan điểm trước thầy cô giáo và bạn học. Từ kết quả khảo sát thái độ học tập trên lớp của sinh viên, chúng tôi có thể đánh giá như sau: Phần lớn sinh viên (83,1%) đã nghiêm túc trong việc “đi học đầy đủ và đúng giờ” Đối với việc “tập trung chú ý nghe giảng” (56,6%) và “chăm chỉ ghi chép bài giảng” (60,2%), mặc dù đã có hơn ½ số sinh viên được khảo sát đạt yêu cầu nhưng con số đạt được chưa thực sự cao, mới chỉ dừng ở mức trung bình. Ngoài ra, số sinh viên tích cực tương tác với giảng viên qua việc giơ tay phát biểu xây dựng bài cũng chỉ đạt 49.4%, tức là chưa vượt qua con số 50%. Tổng hợp các số liệu trên cho thấy, sinh viên chưa hoàn toàn có thái độ học tập tích cực trên lớp. Điều này ít nhiều sẽ ảnh hưởng đến chất lượng học tập và giảng dạy trên lớp cho sinh viên. 3.2. Thái độ học tập ở nhà của sinh viên Cùng với việc học trên lớp, việc học ở nhà có ý nghĩa quan trọng trong việc hỗ trợ sinh viên học tập tốt các môn học. Vì thời gian học trên lớp cho một môn học không nhiều nên việc sinh viên tự giác học ở nhà cũng là một trong những yếu tố quyết định lượng kiến thức sinh viên nắm được và nhớ được sau khi nghe giảng. Tuy nhiên, không phải sinh viên nào cũng có ý thức học bài ở nhà, ngay cả khi các em biết rằng việc học ở nhà là rất cần thiết. Để hiểu hơn về thái độ học tập của sinh viên khi ở nhà, chúng tôi đã tiến hành khảo sát sinh viên về các nội dung chuẩn bị bài mới, ôn bài, làm bài tập và tự học. Khi được hỏi về các nội dung trên, 83 sinh viên được khảo sát cho kết quả điều tra như sau (xem bảng 2). “Chuẩn bị bài mới” (ví dụ như xem trước nội dung bài học, tìm hiểu các vấn đề liên quan, tự giải đáp câu hỏi, xem trước phần bài tập...) thường là công việc sinh viên phải làm trước ở nhà. Để khi đến lớp, các em có thể tận dụng tối đa thời gian trên lớp nắm bắt nội dung bài học, tự tin tham gia các hoạt động phát biểu ý kiến xây dựng bài, đưa ra các câu hỏi thảo luận, yêu cầu giải đáp những chỗ chưa rõ ràng và tương tác được với giảng viên nhiều hơn. Với ý nghĩa như vậy, đối với bất kỳ môn học nào thì việc chuẩn bị bài mới cũng là một công việc có vai trò quan trọng và có ảnh hưởng đến hiệu quả học tập trên lớp của sinh viên. Theo như kết quả khảo sát tại bảng 2, chỉ 44,6% sinh viên có chuẩn bị bài trước khi đến lớp, nhưng có Bảng 2: Kết quả khảo sát sinh viên về thái độ học tập ở nhà Nội dung khảo sát Ý kiến sinh viên Có Không Chuẩn bị bài mới 37/83 44,6% 46/83 55,4% Ôn bài 49/83 59% 34/83 41% Làm bài tập 48/83 57,8% 35/83 42,2% Tự học 47/83 56,6% 36/83 43,4% 98 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 10 - 11/2017 v NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI tới 55,4% sinh viên không chuẩn bị bài. Giải thích về việc không chuẩn bị bài: Một số sinh viên nêu lý do (khi được phỏng vấn) là không chắc chắn về nội dung sẽ học; nhiều sinh viên lấy lý do không có thời gian hoặc ngại chuẩn bị bài; còn lại một số ít sinh viên mức độ chuẩn bị không thường xuyên, có bài chuẩn bị có bài không, tùy vào thời gian rảnh rỗi của bản thân hay là nội dung của bài học. Những con số trên cho thấy, ý thức chuẩn bị bài ở nhà của đa số sinh viên vẫn còn chưa tốt, điều đó có nghĩa sinh viên chưa có sự chủ động và tích cực trong việc học ở nhà, chưa biến việc chuẩn bị bài ở nhà thành một công việc đương nhiên phải làm trước khi lên lớp. Điều này sẽ hạn chế việc giảng viên cung cấp thêm các kiến thức mới và các kiến thức nâng cao đối với một bài giảng trong khuôn khổ số tiết và thời lượng cho phép của một môn học trên lớp. Đối với sinh viên, một công việc quan trọng không kém việc chuẩn bị bài trước khi lên lớp đó là ôn lại những nội dung đã học. Việc ôn lại những nội dung đã học sẽ giúp sinh viên củng cố kiến thức và vận dụng thành thạo những kiến thức đó vào thực tế. Mặc dù việc ôn bài có ý nghĩa như vậy, nhưng khi được hỏi về việc “ôn bài” trước khi đến lớp, thì vẫn còn 41% sinh viên chưa có thói quen giành một khoảng thời gian nhất định trong ngày để thực hiện công việc ôn bài. Số 59% sinh viên còn lại, tuy trả lời có ôn bài, nhưng khi được hỏi thêm chúng tôi biết rằng, việc ôn bài của các em có lúc là sự ngẫu hứng, có lúc là sát ngày thi chứ không phải là công việc đều đặn hàng ngày. Trong con số 59% này, số sinh viên ôn bài với mức độ thường xuyên chỉ đạt 25%. Kết quả điều tra cho thấy bên cạnh những sinh viên có ý thức trong việc ôn bài ở nhà thì vẫn còn nhiều sinh viên chưa ý thức được tầm quan trọng của việc ôn bài. “Học đi đôi với hành”, trong đó “học” là quá trình tiếp nhận kiến thức, còn “hành” là quá trình áp dụng kiến thức vào thực tế. Như vậy, “làm bài tập” chính là sự cụ thể hóa kiến thức lý thuyết thông qua các dạng bài tập thực hành từ đơn giản đến nâng cao. Thông qua việc làm bài tập, sinh viên sẽ hiểu rõ bản thân đã nắm được kiến thức bài học như thế nào, khả năng vận dụng kiến thức ra sao, từ đó có thể củng cố ôn lại các kiến thức lý thuyết mà các em cảm thấy chưa chắc chắn trong quá trình thực hành. Xét ở góc độ ý nghĩa của việc làm bài tập thì như vậy, song kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy, bên cạnh 57,8% sinh viên chăm chỉ làm bài tập, cũng có tới 42,2% sinh viên chưa nhiệt tình với công việc này. Mặc dù các em sinh viên ý thức được vai trò của việc làm bài tập trên lớp cũng như ở nhà, nhưng nhiều em thực tế lên lớp vẫn chưa làm bài hoặc có làm thì cũng làm với thái độ miễn cưỡng, làm lấy lệ cho đủ để không bị giảng viên trừ điểm chuyên cần. Tự học vốn là quá trình người học tự giác và tích cực chiếm lĩnh tri thức. Trong nhà trường đại học, tự học là một trong những kỹ năng quyết định chất lượng học tập và giảng dạy. Thực tế giảng dạy cho thấy, nếu người dạy có giỏi đến mấy mà người học không chịu khó học tập và tự mình nghiên cứu mở rộng kiến thức thì người học khó đạt được kết quả học tập tốt hơn và cũng khó tránh khỏi việc bị lạc hậu so với sự phát triển của xã hội. Trong cùng một điều kiện môi trường học như nhau, sự khác biệt giữa các sinh viên thể hiện ở năng lực tự học. Đối với vấn đề “tự học”, kết quả khảo sát sinh viên cho biết, có 47 sinh viên (tức là 56,6%) có kỹ năng tự học. Việc tự học của các em thể hiện ở sự sắp xếp một cách hợp lý thời gian và không gian học tập trong ngày, tham gia nghiên cứu khoa học, tìm kiếm tài liệu, chuẩn bị bài học, tự đặt tình huống và tìm cách giải quyết các vấn đề đặt ra Số 43,4% sinh viên còn lại, các em vẫn phụ thuộc vào sự truyền thụ tài liệu của giảng viên mà chưa rèn luyện được cho bản thân ý thức tự học. Con số này sẽ là cơ sở để giảng viên đại học chú ý điều chỉnh phương pháp dạy học hướng đến “dạy tự học” nhằm dẫn dắt sinh viên ra khỏi cách học thụ động và kém hiệu quả. Từ kết quả khảo sát thái độ học tập ở nhà của sinh viên (thể hiện ở bảng 2), chúng tôi có thể đánh giá tổng hợp như sau: Hơn một nửa số sinh viên được khảo sát (khoảng 56,6% ~ 59%) 99KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 10 - 11/2017 NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI v đã có ý thức trong việc ôn bài, làm bài tập và tự học. Mức độ tập trung cho các công việc trên chưa phải là cao nhưng tương đối đồng đều, do đó mức chênh giữa việc ôn bài, làm bài tập và tự học không nhiều. Số liệu khảo sát cho thấy, sinh viên rất có ý thức trong việc ôn bài (đạt mức cao nhất 59% trong toàn bộ kết quả khảo sát thái độ học tập ở nhà của sinh viên). Ngoài ra, bảng số liệu cũng cho thấy, sinh viên không thích nhất là việc chuẩn bị bài mới nên cũng có quá nửa số sinh viên được khảo sát không làm việc này (55,4% ). Điều này càng làm rõ hơn tâm lý học thụ động của sinh viên. Các em cho rằng những kiến thức mới trong bài học dù gì cũng sẽ được giảng viên truyền thụ trong các buổi lên lớp, vì thế các em không cần mất thêm thời gian chuẩn bị và lâu dần với cách nghĩ này sẽ khiến sinh viên nảy sinh tâm lý ỷ lại và phụ thuộc vào người dạy. 4. KẾT LUẬN Thái độ học tập là những suy nghĩ, việc làm, cảm xúc của người học đối với việc học tập. Biểu hiện của thái độ học tập sẽ phản ánh người học đối với việc học tập có nghiêm túc hay không và là yếu tố quyết định không nhỏ đối với kết quả học tập của sinh viên và chất lượng giảng dạy của một nhà trường đại học. Từ lý luận đến thực tế nghiên cứu, số liệu của bài viết cho thấy ý thức tự giác học tập của sinh viên vẫn chưa đạt 100%. Đối với nội dung mang tính bắt buộc, có kiểm tra thường xuyên như đi học đầy đủ và đúng giờ thì số sinh viên nghiêm túc thực hiện đạt mức cao nhất 83,1%. Còn ở những nội dung khác như tập trung nghe giảng, ghi chép bài giảng, tương tác với giảng viên, ôn bài, làm bài tập và tự học, tuy số sinh viên có ý thức thực hiện không quá thấp, nhưng số liệu bài viết thu thập được cũng chỉ đạt ở mức trung bình (50%~60%). Kết quả nghiên cứu này phản ánh, một bộ phận sinh viên vẫn thích cách dạy áp đặt và tiếp thu kiến thức một cách bị động qua việc truyền đạt của giảng viên mà không có bước đối chiếu, so sánh với những kiến thức lẽ ra sinh viên cần tìm hiểu và chuẩn bị trước đó. Ngoài ra, kết quả nghiên cứu cũng cho thấy, bên cạnh những sinh viên có ý thức tích cực chủ động chiếm lĩnh kiến thức, thì vẫn còn nhiều sinh viên ngại học, hoặc học theo cảm hứng và học để đối phó, thậm chí sinh viên còn tranh thủ giờ học để làm việc riêng. Sở dĩ còn hiện tượng như vậy là do sinh viên chưa nghiêm túc trong học tập và chưa nhận thức đúng đắn về vai trò của việc học trên lớp cũng như việc học ở nhà./. Tài liệu tham khảo: 1. Đặng Xuân Hải (2002), “Lý luận và phương pháp dạy học đại học”, Tài liệu tham khảo cho học viên cao học, Viện Đảm bảo chất lượng giáo dục – Đại học Quốc gia Hà Nội. 2. Đặng Xuân Hải (2009), “Quản lý chất lượng”, Tài liệu bồi dưỡng Cán bộ quản lý nhà trường các cấp, Viện Đảm bảo chất lượng giáo dục – Đại học Quốc gia Hà Nội. 3. Đào Lan Hương (1998), “Tự đánh giá thái độ học tập môn Toán của sinh viên”, Tạp chí Nghiên cứu giáo dục, số 3. 4. Đặng Bá Lãm (2005), “Quản lý nhà nước về giáo dục - lý luận và thực tiễn”, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 5. Nguyễn Ngọc Quang (1998), “Nguyễn Ngọc Quang - Nhà sư phạm, Người góp phần đổi mới lý luận dạy học”, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội. 6. Tổng cục Tiêu chuẩn đo lường chất lượng, Bộ tiêu chuẩn về hệ thống quản lí chất lượng (ISO 9000:2000). 7. Viện Ngôn ngữ học (2010), “Từ điển tiếng Việt”, NXB Từ điển Bách Khoa, Hà Nội.
File đính kèm:
- thai_do_hoc_tap_cua_sinh_vien_tieng_trung_thuong_mai_va_van.pdf