Tâm thức văn hóa của các cộng đồng Công giáo ở Sài Gòn - Thành phố Hồ Chí Minh (1954 - nay) nhìn từ tên xứ đạo
Công giáo xuất hiện tại Sài Gòn vào khoảng thế kỷ XVII. Sau đợt di cư năm 1954,
giáo dân Công giáo ở Đông Nam Bộ không còn sự đồng nhất về nguồn gốc tộc
người, thành phần chức nghiệp. Khu vực Sài Gòn-TPHCM, các cộng đồng giáo
dân tụ họp lại thành từng cụm riêng, nỗ lực duy trì luồng văn hóa của mình bằng
kiến trúc giáo đường, mỹ thuật tượng thờ, tang ma. nhất là việc đặt tên xứ đạo.
Thông qua kết quả thống kê các kiểu đặt tên xứ đạo ở TPHCM, bài viết tìm hiểu
và giải thích những yếu tố về tâm thức văn hóa của các cộng đồng qua nguồn
gốc quê hương, tập quán, nghề nghiệp của lớp giáo dân thời kỳ đầu.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Bạn đang xem tài liệu "Tâm thức văn hóa của các cộng đồng Công giáo ở Sài Gòn - Thành phố Hồ Chí Minh (1954 - nay) nhìn từ tên xứ đạo", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Tâm thức văn hóa của các cộng đồng Công giáo ở Sài Gòn - Thành phố Hồ Chí Minh (1954 - nay) nhìn từ tên xứ đạo
àn tại Sài Gòn (Bùi Môn, Từ Cầu Ngang...) và ghép chữ “Bình” Đức, Phú Hòa...); đặt ghép chữ “Tân” trƣớc địa danh Nam Bộ (nhƣ Bình trƣớc một phần hay toàn bộ địa danh Hòa ghép “Bình” vào “Hòa Trị thôn” - Bắc Bộ (Tân Chí Linh, Tân Việt, Tân Bảng 2. Thống kê tên 204 xứ đạo Sài Gòn-TPHCM theo phân loại (từ 1954 đến nay) Kiểu tên xứ đạo Tên Ghép Ghép Tên địa Chữ “Bình” ghép chữ chữ danh Đặc trƣớc tên Thánh Bắc địa “Tân” “Hòa” địa trƣng môi địa hoặc kinh Cụm Bộ danh trƣớc địa sau địa phƣơng trƣờng, phƣơng thánh Bắc danh Bắc danh Bắc trƣớc cảnh vật trƣớc 1954 Bộ Bộ Bộ 1954 Bắc 8 7 2 0 3 0 3 3 Trung - tây 1 19 12 4 8 0 3 8 Nam 0 3 0 0 7 9 1 4 Đông 1 5 0 1 14 1 2 14 Tây nam 0 2 0 0 3 0 2 4 Còn lại 3 10 3 2 13 1 3 15 Tổng 13 46 17 7 48 11 14 47 (toàn Giáo phận) Tổng (theo gốc Liên quan đến địa danh Bắc Bộ: Liên quan đến địa danh Nam Tên thánh: tên) 83 Bộ: 73 48 Tổng theo danh Tên thánh: Địa danh: 156 học 48 Nguồn: Tác giả tổng hợp danh sách tên gọi giáo xứ từ trang web Tổng Giáo phận TPHCM, truy cập 3/2017 và bản đồ Hành chính TPHCM năm 2017. TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 3 (271) 2021 57 Sa Châu...); ghép một phần tên Bắc phía bắc – khu Xóm Mới ngày nay, có Bộ trƣớc chữ “Hòa” (lấy chữ đầu tên tính đồng nhất nguyên quán cao địa phƣơng miền Bắc: Thái Bình, (giáo xứ: Hà Nội, Thái Bình, Lạng Nam Lạng, Nghĩa Chính... ghép trƣớc Sơn, Hà Đông), toàn bộ giáo dân đều chữ “Hòa” thành Thái Hòa, Nam Hòa, là ngƣời sống trong các tỉnh thành Nghĩa Hòa)(4). này trƣớc di cƣ. Giáo xứ Công giáo gốc Hoa chủ yếu Đa số giáo dân thời kỳ khai sinh cụm dùng tên thánh để đặt cho giáo xứ: phía bắc là nông dân từ nông thôn Phanxico Xavie, Giuse An Bình, Đức miền Bắc với ƣớc vọng mau chóng Bà Hòa Bình, Jeanne d‟Arc... kết thúc sự chia cắt đất nƣớc để trở Tóm lại, trong thời kỳ đầu, ngoại trừ về quê hƣơng. Vì vậy, tâm thức kết các xứ đạo gốc Hoa, tên các xứ đạo cấu làng xã bền chặt, không nỡ xa ngƣời Việt gần nhƣ hoàn toàn là địa quê cha đất tổ, nhất là gắn với nghĩa danh với 8 kiểu đặt tên. Cách đặt tên vụ bảo vệ tôn ti gia đình, dòng họ. địa danh nhiều hơn tên thánh cho Theo Nguyễn Đức Lộc (2013: 100) thấy đời sống xã hội của cộng đồng “Cộng đồng ngƣời Công giáo Bắc di giáo dân những nơi này gắn bó mật cƣ ở vùng nông thôn chịu ảnh hƣởng thiết với quê hƣơng, tính cố kết cộng sâu sắc bởi quan niệm Nho giáo phƣơng Đông, với việc đề cao tính đồng, tinh thần khu vực có phần ƣu danh dự và thứ bậc”. Cụ Nguyễn Văn tiên hơn. Quang, 81 tuổi, sống ở chợ Xóm Mới 4. TÂM THỨC VĂN HÓA QUA TÊN cho biết: “Hồi ấy đặt tên xứ cứ gọi GỌI CÁC XỨ ĐẠO TẠI SÀI GÒN- theo trại tạm cƣ, Lạng Sơn, Thái Bình, TPHCM ai ngoài kia ở trại nào thì tụ về trại đó. Cụm phía bắc – khu vực hầu hết là Nghĩ ở vài tháng rồi lại về Bắc nhƣ giáo dân Bắc di cư: các tên gọi có hồi đánh nhau năm 46”. Những đặc yếu tố liên quan địa danh Bắc Bộ điểm văn hóa thuần nông nghiệp làng chiếm tới 17/26 xứ đạo (65,5%), đặc xã thời kỳ đầu di cƣ vẫn còn tồn tại biệt, có 8 xứ (31%) lấy lại hoàn toàn đến ngày nay nhƣ địa danh Xóm địa danh Bắc Bộ (Hà Nội, Hà Đông, Thuốc, Trại rau Cha Tống, Trại chim Lạng Sơn, Thái Bình, Lam Sơn, Hòa cút Hoàng Mai..., hoặc khẩu hiệu Bình, Bến Hải và Hoàng Mai); trong (slogan) Bánh mì Những Chàng Trai - khi cả thành phố chỉ có 13 xứ tên nhƣ “Bánh mì khu nhà bạn”, Giò chả Hợp vậy. Điều này có thể lý giải theo hai An - “Hƣơng vị quê nhà”... phƣơng diện: xuất xứ (nguyên quán) Cụm trung - tây – khu vực hầu hết là và đặc điểm chức nghiệp của lớp giáo dân Bắc di cư: các yếu tố liên giáo dân thời kỳ đầu. quan tên Bắc Bộ chiếm tỷ lệ cao Khi tụ họp để thành lập các xứ đạo (65,5%), trong đó cao nhất là tên những năm 1954-1957, giáo dân cụm ghép hai, ba địa danh Bắc Bộ với 58 ĐINH THIỆN PHƢƠNG – TÂM THỨC VĂN HÓA CỦA CÁC 19/55 xứ (34,5%), đáng chú ý là tên danh Sài Gòn: Bùi Môn - giáo xứ của có chữ “Tân” ghép trƣớc địa danh ngƣời Bùi Chu ở Hóc Môn, Thái Hòa - Bắc Bộ (21,8%). giáo xứ của ngƣời Thái Bình ở Chí Cụm này đa số là giáo dân từ 2 hoặc Hòa, Nghĩa Hòa - giáo xứ của ngƣời 3 tỉnh miền Bắc di cƣ vào, từ đó mà Nghĩa Chính ở Chí Hòa... có kiểu đặt tên ghép 2 hoặc 3 địa Dù đặt tên kiểu nào thì giáo dân cụm danh, nhƣ: giáo xứ Bắc Hà (từ Bắc trung - tây cũng với tâm thức từ biệt Ninh và Hà Nội), Bùi Phát (từ Bùi Chu quê cũ, hàm ngôn tuyên ý: giáo dân và Phát Diệm)... Bên cạnh đó, có xứ cũ đã lập xứ mới trong Nam; định 12/55 giáo xứ trong cụm bắt đầu bằng cƣ lâu dài, khác hẳn với giáo dân chữ “Tân” (chiếm tới 22,5%), Sài Gòn- cụm phía bắc chỉ trông mong sớm hồi TPHCM phố có 17 xứ đạo thì cụm này hƣơng, về lại làng xã. Nguồn gốc chiếm 12 xứ (70,5%). Điều này có liên xuất xứ giáo dân khu vực này trong hệ mật thiết tới nguồn gốc nghề điều kiện sống mới, văn hóa làng xã nghiệp giáo dân thời tiền di cƣ. “Họ sợ Bắc Bộ nhanh chóng bị phá vỡ, tiếp bị đƣa đến một vùng xa xôi hẻo lánh. thu lối sống Mỹ, trở thành trung tâm (...) nên đƣa họ đến Gia Định hoặc thƣơng mại, phố thị náo nhiệt. Thực khu vực gần đô thị, bình thƣờng dành tế đời sống giáo dân 60 năm sau đó cho những ngƣời buôn bán và ngành cũng sáng tỏ điều này; khi mà doanh công nghiệp nhẹ” (dẫn theo Hansen, nhân, tiểu thƣơng, công nhân luôn 2013: 30). Nhƣ vậy, cụm trung - tây thích sống ở mặt đƣờng lớn vì thuận đa số giáo dân sống ở thành thị, làm tiện cho việc mở cửa hàng buôn bán, tiểu thƣơng, làm công nhân các công đi lại làm ăn. xƣởng, bến cảng Hà Nội, Hải Phòng... Cụm phía nam: có 24 xứ đạo, trong Lúc mới di cƣ, dù vẫn mang tâm thức đó 19 xứ hình thành từ đợt di cƣ năm lƣu luyến quê cũ nhƣng giáo dân 1954, nhƣng khác với cụm phía bắc cụm này dễ thích nghi và chấp nhận và trung - tây, tên của cụm này gắn nơi định cƣ mới; vì vậy, một loạt tên với địa danh Sài Gòn trƣớc năm 1954; gọi vừa gắn với quê cũ nhƣng cũng 16 giáo xứ đặt tên lấy chữ “Bình” đồng thời ghép thêm yếu tố của vùng ghép trƣớc tên địa danh đang cƣ trú. đất mới đã xuất hiện ngay tại 8 trại di “Trại Bình An”, theo tƣ liệu của giáo cƣ theo hai kiểu: thứ nhất, đặt chữ xứ Bình An thì tên này là từ tên thôn “Tân” (tiếng Hán là “mới”) lên phía “Bình Đông” (phía đông) và “An Phú” trƣớc, tiền thân 12 xứ “Tân” sau này: (phía tây) vốn chép tại Gia Định Tân Chí Linh, Tân Sa Châu, Tân Thới thành thông chí của Trịnh Hoài Đức. Sơn, Tân Châu, Tân Việt, Tân Hòa, Tiếp đó là một loạt giáo xứ bắt đầu từ Tân Phú Hòa, Tân Thành, Tân Trang, chữ “Bình”: Bình Thái, Bình Sơn, Tân Dân, Tân Phƣớc và Tân Mỹ. Thứ Bình Hƣng, Bình Đông, Bình Xuyên... hai, ghép nửa địa danh Bắc vào địa những tên này có tên dùng lại tên TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 3 (271) 2021 59 thôn cũ: Bình Xuyên, Bình Đông, Nội) và Châu Bình (đọc chệch từ Bùi Bình Minh, Bình Chánh. Có tên lại Chu và Thái Bình)... còn các xứ khác ghép chữ “Bình” vào trƣớc một phần vẫn đặt theo tên thôn có sẵn: Thanh tên làng Nam Bộ cũ nhƣ Bình Hƣng Đa, Hàng Sanh... từ tên làng gốm Hƣng Lợi; Bình Minh Cụm phía đông có 14 giáo xứ (nhiều từ khu chăn nuôi Tân Minh, Bình nhất) đặt theo tên thánh. Nhiều giáo Thuận từ làng Phú Thuận. Ngoài ra, xứ có cùng “danh xƣng” và “tƣớc nhiều tên địa phƣơng Nam Bộ khác hiệu nhà thờ”; nhiều xứ đạo lại cùng đƣợc đặt lại: Chánh Hƣng, Hƣng Phú, đặt tên một vị thánh. Điều này không Nam Hƣng, An Phú... Qua mỗi tên xứ chỉ gây khó khăn mà cả sự hiểu lầm đạo ở cụm này có thể nhanh chóng trong thông tin liên lạc. Để phân biệt, xác định địa giới, trong khi đó, những ngƣời ta không ngại thêm các cụm từ cụm khác thì có thể biết đƣợc làng mang tính chỉ dẫn sau tên thánh. gốc Bắc nhƣng không thể định vị Chẳng hạn, Giuse “xa lộ” và Giuse đƣợc ranh giới. “hẻm cụt”; Hiển Linh “cầu sập” và Các xứ đạo cụm phía nam giáo dân Hiển Linh “chuồng bò”; Thánh Khang lịch thiệp, yêu thích ca hát, nhiếp ảnh, “chợ cua” và Thánh Khang “xóm Giáng sinh tổ chức tƣng bừng, thu bột”... Đôi khi, không bị trùng tên vẫn hút ngƣời dân khắp thành phố (Hồ thêm đặc điểm đi kèm nhƣ: Thiên Văn Xuân, 2015). Thần “cầu vƣợt”, Thánh Gẫm “vƣờn Cụm phía đông: có 38 giáo xứ, đa số cò”... là các xứ lớn thành lập từ trƣớc năm Cƣ dân Nam Bộ vốn “năng động” và 1954 (Thị Nghè, Bình Hòa, Thủ Đức, “trọng nghĩa” (Trần Ngọc Thêm, 2008: Thủ Thiêm...), tên giáo xứ là địa 7). Từ thời nhà Nguyễn, do hoàn danh nhiều hơn tên thánh (20/28 cảnh xã hội giáo dân cũng phải di giáo xứ tên địa danh, hiện nay là chuyển nhà thờ làm bằng ván, lá, vật 24/38 giáo xứ tên địa danh). Đặc biệt, liệu nhẹ đi theo. Làng Công giáo các xứ đạo trƣớc năm 1954 vẫn Nam Bộ linh động gắn với môi dùng từ “họ đạo” trên con dấu: họ trƣờng sông nƣớc, ít cố định nhƣ đạo Thị Nghè, họ đạo Gia Định, họ làng Công giáo Bắc Bộ. Vì vậy, cùng đạo Bình Hòa... một tên gọi nhƣng ban đầu tụ họp Cộng đồng Công giáo ngƣời Bắc di nơi đây, ít lâu sau đã ở nơi khác. cƣ ở khu vực này chiếm số ít, khi đến Vào thế kỷ XVIII, nhiều họ đạo nằm định cƣ trong cụm cũng chịu ảnh vị trí khác xa hiện tại nhƣ Xóm hƣởng cách đặt tên Nam Bộ, nên chỉ Chiếu, Khánh Hội cũ nằm lệch hơn 5 giáo xứ đặt bằng tên ghép từ các 2km... Trọng nghĩa nên dù không địa danh Bắc Bộ: Từ Đức (Từ Sơn ở quen không biết vẫn tƣơng trợ, hiệp Thủ Đức), Cao Thái (Cao Mộc tỉnh lực chinh phục thiên nhiên, một Thái Bình), Tam Hà (Tam Bình và Hà trong số đó là thói quen báo tin cho 60 ĐINH THIỆN PHƢƠNG – TÂM THỨC VĂN HÓA CỦA CÁC nhau những địa điểm nguy hiểm Phƣơng Tế Danh Thiên Chủ đƣờng(5). hoặc đặt thành địa danh để cảnh báo: Nhiều bức hoành phi ghi tên đạo khu rạch Sấu, rạch Ong Lớn, xoáy Nhà đầu tiên còn đƣợc bảo quản, lƣu giữ Bè... thói quen này đã lƣu dấu thành rất trang trọng nhƣ ở Nhà thờ Cha một vô thức tập thể qua việc gán Tam, Đức Bà Hòa Bình. Những xứ định danh tại các họ đạo cụm phía gồm cộng đồng vừa ngƣời Việt vừa đông. ngƣời Hoa ra đời sau, dù tên thánh Cụm tây nam: gồm 11 xứ đạo, trong bằng chữ Quốc ngữ nhƣng vẫn có đó có 4 xứ do ngƣời Hoa tự lập. Từ định danh riêng bằng Hán tự treo nơi năm 1855 (khởi nghĩa Thái Bình tiền sảnh: Thăng Long Thánh Gia Thiên Quốc) đến năm 1900 (kết thúc đƣờng, Hiển Linh Thiên Chủ đƣờng, thế kỷ XIX), ngƣời Hoa đã lập 4 đạo: Nhã Sắt Bình Phƣớc đƣờng, Bảo La đạo Tổng Binh - nhà thờ Tổng Lãnh Thiên Chủ đƣờng, Vĩnh Hòa Thánh Thiên thần Micae, đạo Đƣờng Nhân Mẫu điện. (“Thoòng Dzành” bị gọi thành “Thanh 5. KẾT LUẬN Nhân”, còn đƣợc gọi là đạo khu Chợ Ở Sài Gòn-TPHCM, tên xứ đạo đƣợc Lớn) - nhà thờ Thánh Phaolô; đạo đặt theo địa danh nhiều gấp 3 lần so Diên Lang - Nữ thánh Jeanne d‟Arc với đặt theo tên thánh, trong số 1/3 (tiền thân từ đạo khu An Nam); đạo theo tên thánh thì lại gần một nửa là Y Nhã (còn gọi là đạo Thái Bình) - những xứ đạo lập sau năm 1975. Kết thánh Ignatius. Sau năm 1900, Tổng quả thống kê cho thấy, ở mỗi cụm tên Binh giải thể và sau tái lập thành xứ đạo có một vài kiểu đặt tên đồng Giuse An Bình, Đƣờng Nhân (Thanh nhất trong cụm, khác biệt hoàn toàn Nhân) thành Cha Tam và Đức Bà so với cụm khác. Tổng kết lại, có 9 Hòa Bình, Y Nhã tan rã và hình kiểu đặt tên các xứ đạo tại Sài Gòn- thành các nhóm ngƣời Hoa nhỏ TPHCM, ngoài cách đặt tên theo tên trong 5 giáo xứ Bắc di cƣ: Tân thánh, chủ yếu ở các giáo xứ Công Phƣớc, Thăng Long, Phú Bình, Vĩnh giáo gốc ngƣời Hoa, thì đặt tên theo Hòa và Phaolô Quận 10. Tên gọi 4 địa danh gồm 8 kiểu. Trong đó, tên đạo khu này đều ít nhiều gắn với của nhóm giáo xứ gốc Nam Bộ có 3 những sự kiện ở Trung Hoa, còn kiểu, tên của nhóm giáo xứ gốc Bắc tƣớc hiệu nhà thờ đều là các vị di cƣ có 5 kiểu. thánh. Việc chỉ ra những đặc điểm trong cách Kiểu gọi tên “cha Tam”, “An Bình” là đặc tên của các xứ đạo ở Sài Gòn- của ngƣời Việt; cộng đồng ngƣời Hoa TPHCM giúp xác định một số thông tin vẫn duy trì tên chính thức riêng: cơ bản về các giáo xứ: vị trí giáo xứ, Thánh Nhã Sắt An Bình đƣờng, Mã đặc điểm địa lý môi trƣờng tự nhiên, Lợi Hòa Bình Thánh Mẫu điện, Trinh xuất xứ giáo dân, thành phần chức Đức Nữ Thánh Thiên Chủ điện, nghiệp giáo dân và luồng văn hóa chi TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 3 (271) 2021 61 phối chính. Ngoài ra, thông qua việc lịch sử góp phần làm phong phú thêm nghiên cứu tên gọi các xứ đạo kết bản sắc văn hóa của các cộng đồng hợp với các địa danh ở Sài Gòn- Công giáo ở TPHCM. TPHCM sẽ phác họa những lát cắt CHÚ THÍCH (1) Khi đó, giáo phận Sài Gòn gồm: TPHCM, Đồng Nai, Phan Thiết, Bà Rịa - Vũng Tàu ngày nay. (2) Giáo xứ mới có nhà thờ (church), phân biệt với nhà nguyện (chapel). Nhà thờ đƣợc cung hiến bởi giám mục, bàn thờ đƣợc xức dầu ô-liu, bên dƣới chôn xƣơng thánh, nhà thờ có nhà tạm đặt Mình máu Chúa, còn nhà nguyện thì chỉ một số ít đƣợc đặc cách. (3) Xuân Lộc có 202/248 giáo xứ thành lập sau cuộc di cƣ 1954, nhƣ vậy, tỷ lệ giáo dân Bắc di cƣ ƣu thế, nhƣng trong đó chỉ có 13 giáo xứ lấy tên nguyên thủy địa danh miền Bắc: Hải Dƣơng, Thanh Hóa, Hà Nội, Trà Cổ,... và 15 giáo xứ ghép chữ từ tên địa danh Bắc: Bắc Thành, Bùi Đệ, Tiên Chu,... Định vị điểm trên bản đồ thì độ chụm thấp, độ tản rất cao. (4) Ý nghĩa tên gọi giáo xứ viết thành văn bản có chữ ký của linh mục chánh xứ tiên khởi trình Tòa Giám mục, kèm theo quyết định thành lập giáo xứ, tên gọi và ban hành tƣớc hiệu nhà thờ có ấn ký của giám mục. Ngày nay, ý nghĩa tên gọi và lƣợc sử giáo xứ luôn đƣợc công khai trên các trang web của các xứ. (5) Nếu tên xứ đạo (đạo khu) là nam giới thì dùng “đƣờng” (堂), nữ giới dùng “điện” (殿). TÀI LIỆU TRÍCH DẪN 1. Bộ Giáo luật. 1983. Hội đồng Giám mục Việt Nam. Hà Nội: Nxb. Tôn giáo. 2. Hồ Văn Xuân. 2015. “„Nhớ về một ngƣời Cha‟ – Nhân lễ giỗ lần thứ 20 của Đức cố Tổng Giám mục Phaolo Nguyễn Văn Bình”. Tòa Tổng Giám mục TPHCM. https://tgpsai gon.net/bai-viet/nho-ve-mot-nguoi-cha-nhan-le-gio-lan-thu-20-cua-duc-co-tong-giam-mu c-phaolo-nguyen-van-binh-28847, truy cập ngày 13/3/2020. 3. Hansen, Peter. 2009. “Bac di cu: Catholic Refugees from the North of Vietnam, and their Role in the Southern Republic, 1954-1959”. Journal of Vietnamese Studies, 3 (vol.4) (bản PDF tiếng Việt của Đỗ Hải Yến). www.nghiencuuquocte.org. 4. Lê Trung Hoa. 2013. Nhân danh học Việt Nam. Hà Nội: Nxb. Khoa học Xã hội. 5. Nguyễn Đức Lộc. 2015. Cấu hình xã hội cộng đồng Công giáo Bắc di cư tại Nam Bộ. TPHCM: Nxb. Đại học Quốc gia TPHCM. 6. Sơn Nam. 2009. Miền Nam đầu thế kỷ XX – Thiên Địa Hội và cuộc Minh Tân. TPHCM: Nxb. Trẻ. 7. Tòa Tổng Giám mục TP.HCM. 2005. Niên giám Tổng Giáo phận TPHCM. Hà Nội: Nxb. Tôn giáo. 62 ĐINH THIỆN PHƢƠNG – TÂM THỨC VĂN HÓA CỦA CÁC 8. Trần Ngọc Thêm. 2008. “Tính cách ngƣời Việt ở Nam Bộ nhƣ một hệ thống”. Hội thảo Nam Bộ thời kỳ hiện đại. nam/van-hoa-nam-bo/408-tran-ngoc-them-tinh-cach-van-hoa-nguoi-viet-nam- bo.html, truy cập 16/2/2020. 9. Trƣơng Văn Chung, Đinh Thiện Phƣơng. 2012. “Mối quan hệ giữa văn hóa và Công giáo (Trƣờng hợp văn hóa Công giáo ở TPHCM)”. Tạp chí Phát triển Nhân lực, số 5 (31).
File đính kèm:
- tam_thuc_van_hoa_cua_cac_cong_dong_cong_giao_o_sai_gon_thanh.pdf