Tâm thức văn hóa của các cộng đồng Công giáo ở Sài Gòn - Thành phố Hồ Chí Minh (1954 - nay) nhìn từ tên xứ đạo

Công giáo xuất hiện tại Sài Gòn vào khoảng thế kỷ XVII. Sau đợt di cư năm 1954,

giáo dân Công giáo ở Đông Nam Bộ không còn sự đồng nhất về nguồn gốc tộc

người, thành phần chức nghiệp. Khu vực Sài Gòn-TPHCM, các cộng đồng giáo

dân tụ họp lại thành từng cụm riêng, nỗ lực duy trì luồng văn hóa của mình bằng

kiến trúc giáo đường, mỹ thuật tượng thờ, tang ma. nhất là việc đặt tên xứ đạo.

Thông qua kết quả thống kê các kiểu đặt tên xứ đạo ở TPHCM, bài viết tìm hiểu

và giải thích những yếu tố về tâm thức văn hóa của các cộng đồng qua nguồn

gốc quê hương, tập quán, nghề nghiệp của lớp giáo dân thời kỳ đầu.

Tâm thức văn hóa của các cộng đồng Công giáo ở Sài Gòn - Thành phố Hồ Chí Minh (1954 - nay) nhìn từ tên xứ đạo trang 1

Trang 1

Tâm thức văn hóa của các cộng đồng Công giáo ở Sài Gòn - Thành phố Hồ Chí Minh (1954 - nay) nhìn từ tên xứ đạo trang 2

Trang 2

Tâm thức văn hóa của các cộng đồng Công giáo ở Sài Gòn - Thành phố Hồ Chí Minh (1954 - nay) nhìn từ tên xứ đạo trang 3

Trang 3

Tâm thức văn hóa của các cộng đồng Công giáo ở Sài Gòn - Thành phố Hồ Chí Minh (1954 - nay) nhìn từ tên xứ đạo trang 4

Trang 4

Tâm thức văn hóa của các cộng đồng Công giáo ở Sài Gòn - Thành phố Hồ Chí Minh (1954 - nay) nhìn từ tên xứ đạo trang 5

Trang 5

Tâm thức văn hóa của các cộng đồng Công giáo ở Sài Gòn - Thành phố Hồ Chí Minh (1954 - nay) nhìn từ tên xứ đạo trang 6

Trang 6

Tâm thức văn hóa của các cộng đồng Công giáo ở Sài Gòn - Thành phố Hồ Chí Minh (1954 - nay) nhìn từ tên xứ đạo trang 7

Trang 7

Tâm thức văn hóa của các cộng đồng Công giáo ở Sài Gòn - Thành phố Hồ Chí Minh (1954 - nay) nhìn từ tên xứ đạo trang 8

Trang 8

Tâm thức văn hóa của các cộng đồng Công giáo ở Sài Gòn - Thành phố Hồ Chí Minh (1954 - nay) nhìn từ tên xứ đạo trang 9

Trang 9

Tâm thức văn hóa của các cộng đồng Công giáo ở Sài Gòn - Thành phố Hồ Chí Minh (1954 - nay) nhìn từ tên xứ đạo trang 10

Trang 10

pdf 10 trang xuanhieu 5080
Bạn đang xem tài liệu "Tâm thức văn hóa của các cộng đồng Công giáo ở Sài Gòn - Thành phố Hồ Chí Minh (1954 - nay) nhìn từ tên xứ đạo", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Tâm thức văn hóa của các cộng đồng Công giáo ở Sài Gòn - Thành phố Hồ Chí Minh (1954 - nay) nhìn từ tên xứ đạo

Tâm thức văn hóa của các cộng đồng Công giáo ở Sài Gòn - Thành phố Hồ Chí Minh (1954 - nay) nhìn từ tên xứ đạo
àn tại Sài Gòn (Bùi Môn, Từ 
Cầu Ngang...) và ghép chữ “Bình” Đức, Phú Hòa...); đặt ghép chữ “Tân” 
trƣớc địa danh Nam Bộ (nhƣ Bình trƣớc một phần hay toàn bộ địa danh 
Hòa ghép “Bình” vào “Hòa Trị thôn” - Bắc Bộ (Tân Chí Linh, Tân Việt, Tân 
Bảng 2. Thống kê tên 204 xứ đạo Sài Gòn-TPHCM theo phân loại (từ 1954 đến nay) 
 Kiểu tên xứ đạo Tên Ghép Ghép Tên địa 
 Chữ “Bình” 
 ghép chữ chữ danh Đặc 
 trƣớc tên Thánh 
 Bắc địa “Tân” “Hòa” địa trƣng môi 
 địa hoặc kinh 
 Cụm Bộ danh trƣớc địa sau địa phƣơng trƣờng, 
 phƣơng thánh 
 Bắc danh Bắc danh Bắc trƣớc cảnh vật 
 trƣớc 1954 
 Bộ Bộ Bộ 1954 
 Bắc 8 7 2 0 3 0 3 3 
 Trung - tây 1 19 12 4 8 0 3 8 
 Nam 0 3 0 0 7 9 1 4 
 Đông 1 5 0 1 14 1 2 14 
 Tây nam 0 2 0 0 3 0 2 4 
Còn lại 3 10 3 2 13 1 3 15 
Tổng 
 13 46 17 7 48 11 14 47 
(toàn Giáo phận) 
Tổng (theo gốc Liên quan đến địa danh Bắc Bộ: Liên quan đến địa danh Nam Tên thánh: 
tên) 83 Bộ: 73 48 
Tổng theo danh Tên thánh: 
 Địa danh: 156 
học 48 
Nguồn: Tác giả tổng hợp danh sách tên gọi giáo xứ từ trang web Tổng Giáo phận 
TPHCM, truy cập 3/2017 và bản đồ Hành chính TPHCM năm 2017. 
TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 3 (271) 2021 57 
Sa Châu...); ghép một phần tên Bắc phía bắc – khu Xóm Mới ngày nay, có 
Bộ trƣớc chữ “Hòa” (lấy chữ đầu tên tính đồng nhất nguyên quán cao 
địa phƣơng miền Bắc: Thái Bình, (giáo xứ: Hà Nội, Thái Bình, Lạng 
Nam Lạng, Nghĩa Chính... ghép trƣớc Sơn, Hà Đông), toàn bộ giáo dân đều 
chữ “Hòa” thành Thái Hòa, Nam Hòa, là ngƣời sống trong các tỉnh thành 
Nghĩa Hòa)(4). này trƣớc di cƣ. 
Giáo xứ Công giáo gốc Hoa chủ yếu Đa số giáo dân thời kỳ khai sinh cụm 
dùng tên thánh để đặt cho giáo xứ: phía bắc là nông dân từ nông thôn 
Phanxico Xavie, Giuse An Bình, Đức miền Bắc với ƣớc vọng mau chóng 
Bà Hòa Bình, Jeanne d‟Arc... kết thúc sự chia cắt đất nƣớc để trở 
Tóm lại, trong thời kỳ đầu, ngoại trừ về quê hƣơng. Vì vậy, tâm thức kết 
các xứ đạo gốc Hoa, tên các xứ đạo cấu làng xã bền chặt, không nỡ xa 
ngƣời Việt gần nhƣ hoàn toàn là địa quê cha đất tổ, nhất là gắn với nghĩa 
danh với 8 kiểu đặt tên. Cách đặt tên vụ bảo vệ tôn ti gia đình, dòng họ. 
địa danh nhiều hơn tên thánh cho Theo Nguyễn Đức Lộc (2013: 100) 
thấy đời sống xã hội của cộng đồng “Cộng đồng ngƣời Công giáo Bắc di 
giáo dân những nơi này gắn bó mật cƣ ở vùng nông thôn chịu ảnh hƣởng 
thiết với quê hƣơng, tính cố kết cộng sâu sắc bởi quan niệm Nho giáo 
 phƣơng Đông, với việc đề cao tính 
đồng, tinh thần khu vực có phần ƣu 
 danh dự và thứ bậc”. Cụ Nguyễn Văn 
tiên hơn. 
 Quang, 81 tuổi, sống ở chợ Xóm Mới 
4. TÂM THỨC VĂN HÓA QUA TÊN cho biết: “Hồi ấy đặt tên xứ cứ gọi 
GỌI CÁC XỨ ĐẠO TẠI SÀI GÒN-
 theo trại tạm cƣ, Lạng Sơn, Thái Bình, 
TPHCM 
 ai ngoài kia ở trại nào thì tụ về trại đó. 
Cụm phía bắc – khu vực hầu hết là Nghĩ ở vài tháng rồi lại về Bắc nhƣ 
giáo dân Bắc di cư: các tên gọi có hồi đánh nhau năm 46”. Những đặc 
yếu tố liên quan địa danh Bắc Bộ điểm văn hóa thuần nông nghiệp làng 
chiếm tới 17/26 xứ đạo (65,5%), đặc xã thời kỳ đầu di cƣ vẫn còn tồn tại 
biệt, có 8 xứ (31%) lấy lại hoàn toàn đến ngày nay nhƣ địa danh Xóm 
địa danh Bắc Bộ (Hà Nội, Hà Đông, Thuốc, Trại rau Cha Tống, Trại chim 
Lạng Sơn, Thái Bình, Lam Sơn, Hòa cút Hoàng Mai..., hoặc khẩu hiệu 
Bình, Bến Hải và Hoàng Mai); trong (slogan) Bánh mì Những Chàng Trai - 
khi cả thành phố chỉ có 13 xứ tên nhƣ “Bánh mì khu nhà bạn”, Giò chả Hợp 
vậy. Điều này có thể lý giải theo hai An - “Hƣơng vị quê nhà”... 
phƣơng diện: xuất xứ (nguyên quán) Cụm trung - tây – khu vực hầu hết là 
và đặc điểm chức nghiệp của lớp giáo dân Bắc di cư: các yếu tố liên 
giáo dân thời kỳ đầu. quan tên Bắc Bộ chiếm tỷ lệ cao 
Khi tụ họp để thành lập các xứ đạo (65,5%), trong đó cao nhất là tên 
những năm 1954-1957, giáo dân cụm ghép hai, ba địa danh Bắc Bộ với 
58 ĐINH THIỆN PHƢƠNG – TÂM THỨC VĂN HÓA CỦA CÁC 
19/55 xứ (34,5%), đáng chú ý là tên danh Sài Gòn: Bùi Môn - giáo xứ của 
có chữ “Tân” ghép trƣớc địa danh ngƣời Bùi Chu ở Hóc Môn, Thái Hòa - 
Bắc Bộ (21,8%). giáo xứ của ngƣời Thái Bình ở Chí 
Cụm này đa số là giáo dân từ 2 hoặc Hòa, Nghĩa Hòa - giáo xứ của ngƣời 
3 tỉnh miền Bắc di cƣ vào, từ đó mà Nghĩa Chính ở Chí Hòa... 
có kiểu đặt tên ghép 2 hoặc 3 địa Dù đặt tên kiểu nào thì giáo dân cụm 
danh, nhƣ: giáo xứ Bắc Hà (từ Bắc trung - tây cũng với tâm thức từ biệt 
Ninh và Hà Nội), Bùi Phát (từ Bùi Chu quê cũ, hàm ngôn tuyên ý: giáo dân 
và Phát Diệm)... Bên cạnh đó, có xứ cũ đã lập xứ mới trong Nam; định 
12/55 giáo xứ trong cụm bắt đầu bằng cƣ lâu dài, khác hẳn với giáo dân 
chữ “Tân” (chiếm tới 22,5%), Sài Gòn- cụm phía bắc chỉ trông mong sớm hồi 
TPHCM phố có 17 xứ đạo thì cụm này hƣơng, về lại làng xã. Nguồn gốc 
chiếm 12 xứ (70,5%). Điều này có liên xuất xứ giáo dân khu vực này trong 
hệ mật thiết tới nguồn gốc nghề điều kiện sống mới, văn hóa làng xã 
nghiệp giáo dân thời tiền di cƣ. “Họ sợ Bắc Bộ nhanh chóng bị phá vỡ, tiếp 
bị đƣa đến một vùng xa xôi hẻo lánh. thu lối sống Mỹ, trở thành trung tâm 
(...) nên đƣa họ đến Gia Định hoặc thƣơng mại, phố thị náo nhiệt. Thực 
khu vực gần đô thị, bình thƣờng dành tế đời sống giáo dân 60 năm sau đó 
cho những ngƣời buôn bán và ngành cũng sáng tỏ điều này; khi mà doanh 
công nghiệp nhẹ” (dẫn theo Hansen, nhân, tiểu thƣơng, công nhân luôn 
2013: 30). Nhƣ vậy, cụm trung - tây thích sống ở mặt đƣờng lớn vì thuận 
đa số giáo dân sống ở thành thị, làm tiện cho việc mở cửa hàng buôn bán, 
tiểu thƣơng, làm công nhân các công đi lại làm ăn. 
xƣởng, bến cảng Hà Nội, Hải Phòng... Cụm phía nam: có 24 xứ đạo, trong 
Lúc mới di cƣ, dù vẫn mang tâm thức đó 19 xứ hình thành từ đợt di cƣ năm 
lƣu luyến quê cũ nhƣng giáo dân 1954, nhƣng khác với cụm phía bắc 
cụm này dễ thích nghi và chấp nhận và trung - tây, tên của cụm này gắn 
nơi định cƣ mới; vì vậy, một loạt tên với địa danh Sài Gòn trƣớc năm 1954; 
gọi vừa gắn với quê cũ nhƣng cũng 16 giáo xứ đặt tên lấy chữ “Bình” 
đồng thời ghép thêm yếu tố của vùng ghép trƣớc tên địa danh đang cƣ trú. 
đất mới đã xuất hiện ngay tại 8 trại di “Trại Bình An”, theo tƣ liệu của giáo 
cƣ theo hai kiểu: thứ nhất, đặt chữ xứ Bình An thì tên này là từ tên thôn 
“Tân” (tiếng Hán là “mới”) lên phía “Bình Đông” (phía đông) và “An Phú” 
trƣớc, tiền thân 12 xứ “Tân” sau này: (phía tây) vốn chép tại Gia Định 
Tân Chí Linh, Tân Sa Châu, Tân Thới thành thông chí của Trịnh Hoài Đức. 
Sơn, Tân Châu, Tân Việt, Tân Hòa, Tiếp đó là một loạt giáo xứ bắt đầu từ 
Tân Phú Hòa, Tân Thành, Tân Trang, chữ “Bình”: Bình Thái, Bình Sơn, 
Tân Dân, Tân Phƣớc và Tân Mỹ. Thứ Bình Hƣng, Bình Đông, Bình Xuyên... 
hai, ghép nửa địa danh Bắc vào địa những tên này có tên dùng lại tên 
TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 3 (271) 2021 59 
thôn cũ: Bình Xuyên, Bình Đông, Nội) và Châu Bình (đọc chệch từ Bùi 
Bình Minh, Bình Chánh. Có tên lại Chu và Thái Bình)... còn các xứ khác 
ghép chữ “Bình” vào trƣớc một phần vẫn đặt theo tên thôn có sẵn: Thanh 
tên làng Nam Bộ cũ nhƣ Bình Hƣng Đa, Hàng Sanh... 
từ tên làng gốm Hƣng Lợi; Bình Minh Cụm phía đông có 14 giáo xứ (nhiều 
từ khu chăn nuôi Tân Minh, Bình nhất) đặt theo tên thánh. Nhiều giáo 
Thuận từ làng Phú Thuận. Ngoài ra, xứ có cùng “danh xƣng” và “tƣớc 
nhiều tên địa phƣơng Nam Bộ khác hiệu nhà thờ”; nhiều xứ đạo lại cùng 
đƣợc đặt lại: Chánh Hƣng, Hƣng Phú, đặt tên một vị thánh. Điều này không 
Nam Hƣng, An Phú... Qua mỗi tên xứ chỉ gây khó khăn mà cả sự hiểu lầm 
đạo ở cụm này có thể nhanh chóng trong thông tin liên lạc. Để phân biệt, 
xác định địa giới, trong khi đó, những 
 ngƣời ta không ngại thêm các cụm từ 
cụm khác thì có thể biết đƣợc làng 
 mang tính chỉ dẫn sau tên thánh. 
gốc Bắc nhƣng không thể định vị 
 Chẳng hạn, Giuse “xa lộ” và Giuse 
đƣợc ranh giới. 
 “hẻm cụt”; Hiển Linh “cầu sập” và 
Các xứ đạo cụm phía nam giáo dân Hiển Linh “chuồng bò”; Thánh Khang 
lịch thiệp, yêu thích ca hát, nhiếp ảnh, “chợ cua” và Thánh Khang “xóm 
Giáng sinh tổ chức tƣng bừng, thu bột”... Đôi khi, không bị trùng tên vẫn 
hút ngƣời dân khắp thành phố (Hồ thêm đặc điểm đi kèm nhƣ: Thiên 
Văn Xuân, 2015). Thần “cầu vƣợt”, Thánh Gẫm “vƣờn 
Cụm phía đông: có 38 giáo xứ, đa số cò”... 
là các xứ lớn thành lập từ trƣớc năm Cƣ dân Nam Bộ vốn “năng động” và 
1954 (Thị Nghè, Bình Hòa, Thủ Đức, “trọng nghĩa” (Trần Ngọc Thêm, 2008: 
Thủ Thiêm...), tên giáo xứ là địa 7). Từ thời nhà Nguyễn, do hoàn 
danh nhiều hơn tên thánh (20/28 cảnh xã hội giáo dân cũng phải di 
giáo xứ tên địa danh, hiện nay là chuyển nhà thờ làm bằng ván, lá, vật 
24/38 giáo xứ tên địa danh). Đặc biệt, liệu nhẹ đi theo. Làng Công giáo 
các xứ đạo trƣớc năm 1954 vẫn Nam Bộ linh động gắn với môi 
dùng từ “họ đạo” trên con dấu: họ trƣờng sông nƣớc, ít cố định nhƣ 
đạo Thị Nghè, họ đạo Gia Định, họ làng Công giáo Bắc Bộ. Vì vậy, cùng 
đạo Bình Hòa... một tên gọi nhƣng ban đầu tụ họp 
Cộng đồng Công giáo ngƣời Bắc di nơi đây, ít lâu sau đã ở nơi khác. 
cƣ ở khu vực này chiếm số ít, khi đến Vào thế kỷ XVIII, nhiều họ đạo nằm 
định cƣ trong cụm cũng chịu ảnh vị trí khác xa hiện tại nhƣ Xóm 
hƣởng cách đặt tên Nam Bộ, nên chỉ Chiếu, Khánh Hội cũ nằm lệch hơn 
5 giáo xứ đặt bằng tên ghép từ các 2km... Trọng nghĩa nên dù không 
địa danh Bắc Bộ: Từ Đức (Từ Sơn ở quen không biết vẫn tƣơng trợ, hiệp 
Thủ Đức), Cao Thái (Cao Mộc tỉnh lực chinh phục thiên nhiên, một 
Thái Bình), Tam Hà (Tam Bình và Hà trong số đó là thói quen báo tin cho 
60 ĐINH THIỆN PHƢƠNG – TÂM THỨC VĂN HÓA CỦA CÁC 
nhau những địa điểm nguy hiểm Phƣơng Tế Danh Thiên Chủ đƣờng(5). 
hoặc đặt thành địa danh để cảnh báo: Nhiều bức hoành phi ghi tên đạo khu 
rạch Sấu, rạch Ong Lớn, xoáy Nhà đầu tiên còn đƣợc bảo quản, lƣu giữ 
Bè... thói quen này đã lƣu dấu thành rất trang trọng nhƣ ở Nhà thờ Cha 
một vô thức tập thể qua việc gán Tam, Đức Bà Hòa Bình. Những xứ 
định danh tại các họ đạo cụm phía gồm cộng đồng vừa ngƣời Việt vừa 
đông. ngƣời Hoa ra đời sau, dù tên thánh 
Cụm tây nam: gồm 11 xứ đạo, trong bằng chữ Quốc ngữ nhƣng vẫn có 
đó có 4 xứ do ngƣời Hoa tự lập. Từ định danh riêng bằng Hán tự treo nơi 
năm 1855 (khởi nghĩa Thái Bình tiền sảnh: Thăng Long Thánh Gia 
Thiên Quốc) đến năm 1900 (kết thúc đƣờng, Hiển Linh Thiên Chủ đƣờng, 
thế kỷ XIX), ngƣời Hoa đã lập 4 đạo: Nhã Sắt Bình Phƣớc đƣờng, Bảo La 
đạo Tổng Binh - nhà thờ Tổng Lãnh Thiên Chủ đƣờng, Vĩnh Hòa Thánh 
Thiên thần Micae, đạo Đƣờng Nhân Mẫu điện. 
(“Thoòng Dzành” bị gọi thành “Thanh 5. KẾT LUẬN 
Nhân”, còn đƣợc gọi là đạo khu Chợ Ở Sài Gòn-TPHCM, tên xứ đạo đƣợc 
Lớn) - nhà thờ Thánh Phaolô; đạo đặt theo địa danh nhiều gấp 3 lần so 
Diên Lang - Nữ thánh Jeanne d‟Arc với đặt theo tên thánh, trong số 1/3 
(tiền thân từ đạo khu An Nam); đạo theo tên thánh thì lại gần một nửa là 
Y Nhã (còn gọi là đạo Thái Bình) - những xứ đạo lập sau năm 1975. Kết 
thánh Ignatius. Sau năm 1900, Tổng quả thống kê cho thấy, ở mỗi cụm tên 
Binh giải thể và sau tái lập thành xứ đạo có một vài kiểu đặt tên đồng 
Giuse An Bình, Đƣờng Nhân (Thanh nhất trong cụm, khác biệt hoàn toàn 
Nhân) thành Cha Tam và Đức Bà so với cụm khác. Tổng kết lại, có 9 
Hòa Bình, Y Nhã tan rã và hình kiểu đặt tên các xứ đạo tại Sài Gòn-
thành các nhóm ngƣời Hoa nhỏ TPHCM, ngoài cách đặt tên theo tên 
trong 5 giáo xứ Bắc di cƣ: Tân thánh, chủ yếu ở các giáo xứ Công 
Phƣớc, Thăng Long, Phú Bình, Vĩnh giáo gốc ngƣời Hoa, thì đặt tên theo 
Hòa và Phaolô Quận 10. Tên gọi 4 địa danh gồm 8 kiểu. Trong đó, tên 
đạo khu này đều ít nhiều gắn với của nhóm giáo xứ gốc Nam Bộ có 3 
những sự kiện ở Trung Hoa, còn kiểu, tên của nhóm giáo xứ gốc Bắc 
tƣớc hiệu nhà thờ đều là các vị di cƣ có 5 kiểu. 
thánh. Việc chỉ ra những đặc điểm trong cách 
Kiểu gọi tên “cha Tam”, “An Bình” là đặc tên của các xứ đạo ở Sài Gòn-
của ngƣời Việt; cộng đồng ngƣời Hoa TPHCM giúp xác định một số thông tin 
vẫn duy trì tên chính thức riêng: cơ bản về các giáo xứ: vị trí giáo xứ, 
Thánh Nhã Sắt An Bình đƣờng, Mã đặc điểm địa lý môi trƣờng tự nhiên, 
Lợi Hòa Bình Thánh Mẫu điện, Trinh xuất xứ giáo dân, thành phần chức 
Đức Nữ Thánh Thiên Chủ điện, nghiệp giáo dân và luồng văn hóa chi 
TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 3 (271) 2021 61 
phối chính. Ngoài ra, thông qua việc lịch sử góp phần làm phong phú thêm 
nghiên cứu tên gọi các xứ đạo kết bản sắc văn hóa của các cộng đồng 
hợp với các địa danh ở Sài Gòn- Công giáo ở TPHCM.  
TPHCM sẽ phác họa những lát cắt 
CHÚ THÍCH 
(1) Khi đó, giáo phận Sài Gòn gồm: TPHCM, Đồng Nai, Phan Thiết, Bà Rịa - Vũng Tàu ngày 
nay. 
(2) Giáo xứ mới có nhà thờ (church), phân biệt với nhà nguyện (chapel). Nhà thờ đƣợc cung 
hiến bởi giám mục, bàn thờ đƣợc xức dầu ô-liu, bên dƣới chôn xƣơng thánh, nhà thờ có 
nhà tạm đặt Mình máu Chúa, còn nhà nguyện thì chỉ một số ít đƣợc đặc cách. 
(3) Xuân Lộc có 202/248 giáo xứ thành lập sau cuộc di cƣ 1954, nhƣ vậy, tỷ lệ giáo dân 
Bắc di cƣ ƣu thế, nhƣng trong đó chỉ có 13 giáo xứ lấy tên nguyên thủy địa danh miền 
Bắc: Hải Dƣơng, Thanh Hóa, Hà Nội, Trà Cổ,... và 15 giáo xứ ghép chữ từ tên địa danh 
Bắc: Bắc Thành, Bùi Đệ, Tiên Chu,... Định vị điểm trên bản đồ thì độ chụm thấp, độ tản 
rất cao. 
(4) Ý nghĩa tên gọi giáo xứ viết thành văn bản có chữ ký của linh mục chánh xứ tiên khởi 
trình Tòa Giám mục, kèm theo quyết định thành lập giáo xứ, tên gọi và ban hành tƣớc hiệu 
nhà thờ có ấn ký của giám mục. Ngày nay, ý nghĩa tên gọi và lƣợc sử giáo xứ luôn đƣợc 
công khai trên các trang web của các xứ. 
(5) 
 Nếu tên xứ đạo (đạo khu) là nam giới thì dùng “đƣờng” (堂), nữ giới dùng “điện” (殿). 
TÀI LIỆU TRÍCH DẪN 
1. Bộ Giáo luật. 1983. Hội đồng Giám mục Việt Nam. Hà Nội: Nxb. Tôn giáo. 
2. Hồ Văn Xuân. 2015. “„Nhớ về một ngƣời Cha‟ – Nhân lễ giỗ lần thứ 20 của Đức cố 
Tổng Giám mục Phaolo Nguyễn Văn Bình”. Tòa Tổng Giám mục TPHCM. https://tgpsai 
gon.net/bai-viet/nho-ve-mot-nguoi-cha-nhan-le-gio-lan-thu-20-cua-duc-co-tong-giam-mu 
c-phaolo-nguyen-van-binh-28847, truy cập ngày 13/3/2020. 
3. Hansen, Peter. 2009. “Bac di cu: Catholic Refugees from the North of Vietnam, and 
their Role in the Southern Republic, 1954-1959”. Journal of Vietnamese Studies, 3 (vol.4) 
(bản PDF tiếng Việt của Đỗ Hải Yến). www.nghiencuuquocte.org. 
4. Lê Trung Hoa. 2013. Nhân danh học Việt Nam. Hà Nội: Nxb. Khoa học Xã hội. 
5. Nguyễn Đức Lộc. 2015. Cấu hình xã hội cộng đồng Công giáo Bắc di cư tại Nam Bộ. 
TPHCM: Nxb. Đại học Quốc gia TPHCM. 
6. Sơn Nam. 2009. Miền Nam đầu thế kỷ XX – Thiên Địa Hội và cuộc Minh Tân. 
TPHCM: Nxb. Trẻ. 
7. Tòa Tổng Giám mục TP.HCM. 2005. Niên giám Tổng Giáo phận TPHCM. Hà Nội: 
Nxb. Tôn giáo. 
62 ĐINH THIỆN PHƢƠNG – TÂM THỨC VĂN HÓA CỦA CÁC 
8. Trần Ngọc Thêm. 2008. “Tính cách ngƣời Việt ở Nam Bộ nhƣ một hệ thống”. Hội 
thảo Nam Bộ thời kỳ hiện đại. 
nam/van-hoa-nam-bo/408-tran-ngoc-them-tinh-cach-van-hoa-nguoi-viet-nam- bo.html, 
truy cập 16/2/2020. 
9. Trƣơng Văn Chung, Đinh Thiện Phƣơng. 2012. “Mối quan hệ giữa văn hóa và Công 
giáo (Trƣờng hợp văn hóa Công giáo ở TPHCM)”. Tạp chí Phát triển Nhân lực, số 5 
(31). 

File đính kèm:

  • pdftam_thuc_van_hoa_cua_cac_cong_dong_cong_giao_o_sai_gon_thanh.pdf