Tài liệu Hỏi đáp về quyền con người (Phần 1)
Câu hỏi 1
“Quyền con người” là gì?
Trả lời
Có nhiều định nghĩa khác nhau về quyền con người
(human rights), theo Văn phòng Cao ủy Liên Hợp Quốc
thì: ʺQuyền con người là những bảo đảm pháp lý phổ quát
(universal legal guarantees) có tác dụng bảo vệ các cá nhân và nhóm
chống lại những hành động (actions) hoặc sự bỏ mặc (omissions)
làm tổn hại đến nhân phẩm, những sự được phép (entitlements) và
tự do cơ bản (fundamental freedoms) củacon ngườiʺ1.
Bên cạnh đó, quyền con người còn được định nghĩa một
cách khái quát là những quyền bẩm sinh, vốn có của con
người mà nếu không được hưởng thì chúng ta sẽ không thể
sống như một con người2.
Dù định nghĩa các chuyên gia, cơ quan nghiên cứu nêu
ra không hoàn toàn giống nhau, nhưng xét chung, quyền
con người thường được hiểu là những nhu cầu, lợi ích tự
nhiên, vốn có và khách quan của con người được ghi nhận và bảo
vệ trong pháp luật quốc gia và các thỏa thuận pháp lý quốc tế.
Trong thực tế ở Việt Nam, bên cạnh thuật ngữ “quyền con
người”, có một thuật ngữ khác cũng được sử dụng, đó là
“nhân quyền”. Cả hai thuật ngữ này đều bắt nguồn từ thuật
ngữ human rights. Từ human rights trong tiếng Anh có thể
được dịch là quyền con người (thuần Việt) hoặc nhân quyền
(Hán ‐ Việt). Theo Đại Từ điển Tiếng Việt, “nhân quyền”
chính là “quyền con người”3. Như vậy, xét về mặt ngôn ngữ
học, quyền con người và nhân quyền là hai từ đồng nghĩa, do
đó, hoàn toàn có thể sử dụng cả hai từ này trong nghiên cứu,
giảng dạy và hoạt động thực tiễn về nhân quyền.
Trong cuốn sách này, hai thuật ngữ “nhân quyền” và
“quyền con người” sẽ cùng được sử dụng vì lý do trên.
Câu hỏi 2
Quyền con người có nguồn gốc tự nhiên hay do pháp
luật quy định?
Trả lời
Về vấn đề này, có hai trường phái trái ngược nhau.
Những người theo học thuyết về quyền tự nhiên (natural
rights) ‐ mà tiêu biểu là các tác giả như Zeno (333‐264
TCN), Thomas Hobbes (1588‐1679), John Locke (1632‐
1704), Thomas Paine (1731‐1809). cho rằng nhân quyền là
những gì bẩm sinh, vốn có mà mọi cá nhân sinh ra đều
được hưởng, chỉ đơn giản bởi họ là thành viên của gia
đình nhân loại. Do đó, các quyền con người không phụ
thuộc vào phong tục, tập quán, truyền thống văn hóa hay
ý chí của bất cứ cá nhân, giai cấp, tầng lớp, tổ chức, cộng
đồng hay nhà nước nào. Cũng do đó, không một chủ thể
nào, kể cả các nhà nước, có thể ban phát hay tùy tiện tước
bỏ các quyền con người.
Ngược lại, những người theo học thuyết về các quyền
pháp lý (legal rights) ‐ mà tiêu biểu là các tác giả như
Edmund Burke (1729‐1797), Jeremy Bentham (1748‐1832).
cho rằng các quyền con người không phải là những gì
bẩm sinh, vốn có một cách tự nhiên mà phải do các nhà
nước quy định trong pháp luật. Như vậy, theo học thuyết
này, phạm vi, giới hạn và ở góc độ nhất định, cả thời hạn
hiệu lực của các quyền con người phụ thuộc vào ý chí của
tầng lớp thống trị và những yếu tố như phong tục, tập
quán, truyền thống văn hóa. của từng xã hội.
Cho đến nay, cuộc tranh luận về tính đúng đắn của hai
học thuyết kể trên vẫn còn tiếp tục. Việc phân định tính
chất đúng, sai, hợp lý và không hợp lý của hai học thuyết
này là không đơn giản do chúng liên quan đến một phạm
vi rộng lớn các vấn đề triết học, chính trị, xã hội, đạo đức,
pháp lý Mặc dù vậy, dường như quan điểm cực đoan
phủ nhận hoàn toàn bất cứ học thuyết nào đều không phù
hợp, bởi lẽ trong khi về hình thức, hầu hết các văn kiện
pháp luật của các quốc gia đều thể hiện các quyền con
người là các quyền pháp lý, thì trong Tuyên ngôn toàn thế
giới về nhân quyền năm 1948, một số văn kiện pháp luật
và văn kiện chính trị pháp lý ở một số quốc gia, nhân
quyền được khẳng định một cách rõ ràng là các quyền tự
nhiên, vốn có và không thể chuyển nhượng được của các
cá nhân4
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Tóm tắt nội dung tài liệu: Tài liệu Hỏi đáp về quyền con người (Phần 1)
Những điều kiện để một đơn khiếu tố được xem xét theo thủ tục hiện hành của HRC bao gồm: (i) Nội dung khiếu tố không mang động cơ chính trị và phải phù hợp với Hiến chương Liên Hợp Quốc, UDHR và các văn kiện quốc tế khác về nhân quyền; (ii) Có dữ kiện mô tả sự vi phạm nhân quyền; (iii) Ngôn ngữ không được lạm dụng; (iv) Được gửi bởi một cá nhân hoặc một nhóm người coi mình là nạn nhân của vi phạm, hoặc bởi bất kỳ người hoặc nhóm người nào, bao gồm các tổ chức phi chính phủ mà hành động thiện chí theo các nguyên tắc của nhân quyền và có thông tin trực tiếp, đáng tin cậy về sự vi phạm; (v) Thông tin chỉ bắt nguồn từ các phương tiện truyền thông sẽ không được chấp nhận; (vi) Vụ việc đã được giải quyết bằng các thủ tục đặc biệt hoặc bởi các cơ quan công ước hoặc cơ quan khác của Liên Hợp Quốc hay bởi các cơ chế khu vực về nhân quyền sẽ không được chấp nhận; (vii) Đã vận dụng hết những thủ tục giải quyết vụ việc ở trong nước nhưng không đạt kết quả, hoặc việc giải quyết theo các thủ tục đó bị trì hoãn, kéo dài một cách vô lý. HỎ I ĐÁP VỀ Q UYỀN CO N N GƯỜ I – 144 – Câu hỏi 66 Thủ tục điều tra đặc biệt là gì? Trả lời Bên cạnh việc tiếp nhận và xem xét những khiếu tố về vi phạm nhân quyền, ĐHĐ, ECOSOC và HRC (trước đây là CHR) còn thực hiện các hoạt động điều tra bất thường (non‐conventional investigative procedures) những tình huống vi phạm con người nghiêm trọng diễn ra ở một quốc gia hoặc khu vực cụ thể. Việc điều tra này được tiến hành thông qua các nhóm công tác (working group) hoặc các báo cáo viên đặc biệt (special rapporteur), hay chuyên gia độc lập (independent expert). Trong một số trường hợp, Tổng Thư ký cũng có thể chỉ định các đại diện đặc biệt (special representative) để thực hiện nhiệm vụ này. Thủ tục kể trên được bắt đầu triển khai từ năm 1980 theo hai hình thức: a) điều tra những vấn đề nghiêm trọng về nhân quyền (không hạn chế về lãnh thổ, gọi là điều tra theo chủ đề ‐ thematic procedures), và b) điều tra những vi phạm nhân quyền nghiêm trọng xảy ra ở một quốc gia (gọi là điều tra theo quốc gia ‐ country‐based procedures). Đơn vị đầu tiên được CHR thiết lập là Nhóm công tác về các vụ cưỡng bức mất tích (1980). Tiếp theo đó, CHR đã chỉ định các báo cáo viên đặc biệt để điều tra về những hình thức hành quyết độc đoán (1982), báo cáo viên đặc biệt về tra tấn (1985), báo cáo viên đặc biệt về các hình thức phân biệt đối xử về tôn giáo, tín ngưỡng (1986), báo cáo viên đặc biệt về vấn đề lính đánh thuê (1988), Nhóm công tác về các vụ bắt giữ tuỳ tiện (1991)... Các nhóm công tác, báo cáo viên L UẬT N H ÂN Q U YỀN Q UỐC TẾ – 145 – đặc biệt này có quyền tìm kiếm và tiếp nhận thông tin có liên quan từ tất cả các nguồn có thể và áp dụng các biện pháp điều tra thích hợp để làm rõ vấn đề, sau đó báo cáo với CHR trong phiên họp gần nhất. Tính đến đầu năm 2009, đã có 36 báo cáo viên đặc biệt, đại diện đặc biệt, chuyên gia độc lập được bổ nhiệm và ba nhóm công tác được thành lập để thực hiện hoạt động điều tra bất thường nêu trên. Một số quốc gia đã từng là địa bàn thực hiện thủ tục này bao gồm: Các lãnh thổ Palestine (1993, 2008), Haiti (1995), Libêria (2003), CHDCND Triều Tiên (2005), Burundi (2005), Cam‐pu‐chia (2005), CHDCND Công‐gô (2005), Xu‐ đăng (2005), Somalia (2008), Miến Điện (2008)... Các chủ đề đã được điều tra, nghiên cứu theo thủ tục trên bao gồm: Nơi cư trú (2008), Các hình thức nô lệ hiện đại (2007), Quyền giáo dục (2004), Tác động của các chính sách cải cách kinh tế và nợ nước ngoài đối với nhân quyền (2008), Tử hình vô căn cứ hoặc tùy tiện (2004), Quyền có lương thực (2008), Tự do ngôn luận và biểu đạt (2002), Tự do tôn giáo, tín ngưỡng (2004), Hoàn cảnh của những người bảo vệ nhân quyền (2008), Tính độc lập của thẩm phán và luật sư (2003), Các vấn đề của người thiểu số (2005), Sức khỏe thể chất và tinh thần (2005), Bảo vệ nhân quyền trong chống khủng bố (2005), Phân biệt chủng tộc và sự kỳ thị (2008), Buôn bán trẻ em, mại dâm trẻ em và văn hóa phẩm khiêu dâm trẻ em (2008), Tra tấn (2004), Buôn người (2004), Sử dụng lính đánh thuê chống lại quyền tự quyết của các dân tộc (2004), Bạo lực chống lại phụ nữ (2003), Nhân quyền và sự nghèo đói cùng cực (2004), Nhân quyền và sự đoàn kết quốc tế (2005), Nhân quyền và việc vận chuyển chất thải bất hợp pháp HỎ I ĐÁP VỀ Q UYỀN CO N N GƯỜ I – 146 – (2004), Nhân quyền và các công ty xuyên quốc gia và các doanh nghiệp khác (2005), Quyền của người bản địa (2008), Quyền của những người bị buộc rời bỏ nơi ở (2004), Quyền của người lao động nhập cư (2005) Như đã đề cập, hiện nay HRC tiếp tục thực hiện các thủ tục đặc biệt như trước đây CHR đã làm nhưng có những cải tiến nhất định trong việc tuyển chọn và quản lý các chuyên gia nhằm nâng cao hiệu quả của các thủ tục này. Câu hỏi 67 Những cơ quan nào của Liên Hợp Quốc tiếp nhận các khiếu nại cá nhân về vi phạm nhân quyền? Trả lời Trong trường hợp cá nhân công dân của một quốc gia cho rằng mình là nạn nhân của các hành vi vi phạm nhân quyền và đã khiếu nại, tố cáo theo các cơ chế, thủ tục trong nước nhưng cảm thấy sự giải quyết không thỏa đáng thì có thể khiếu nại lên các ủy ban giám sát công ước nhân quyền Liên Hợp Quốc có liên quan mà có chức năng tiếp nhận và giải quyết những khiếu nại dạng này (đã nêu ở phần trên), với điều kiện là quốc gia thành viên mà người đó là công dân đã chấp nhận thẩm quyền của ủy ban công ước đó trong việc tiếp nhận và giải quyết các khiếu nại cá nhân. Thông thường, các quốc gia bày tỏ sự chấp thuận thẩm quyền tiếp nhận và giải quyết khiếu nại cá nhân của các ủy ban công ước bằng một tuyên bố chấp nhận (như đối với L UẬT N H ÂN Q U YỀN Q UỐC TẾ – 147 – Công ước xóa bỏ mọi hình thức phân biệt chủng tộc ‐ ICERD (việc tuyên bố theo Điều 14), Công ước chống tra tấn ‐ CAT (việc tuyên bố theo Điều 22), hay phê chuẩn hoặc gia nhập một Nghị định thư bổ sung (thiết lập thẩm quyền tiếp nhận, giải quyết khiếu nại từ cá nhân) của một công ước (như đối với Công ước về các quyền dân sự và chính trị ‐ ICCPR, Công ước về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử đối với phụ nữ ‐ CEDAW, Công ước về các quyền của người khuyết tật ‐ ICRPD). Nếu quốc gia chưa có sự chấp thuận, công dân không thể khiếu nại đến cơ chế đó. Chẳng hạn như Việt Nam, mặc dù quốc gia đã gia nhập ICCPR, nhưng lại chưa tham gia Nghị định thư bổ sung thứ nhất của Công ước này (thiết lập thẩm quyền tiếp nhận, giải quyết khiếu nại từ cá nhân khi thấy các quyền của mình quy định trong ICCPR bị quốc gia vi phạm), thì công dân Việt Nam không thể khiếu nại đến Ủy ban Nhân quyền (Human Rights Committee ‐ cơ quan giám sát ICCPR). Khác với cơ chế giám sát theo điều ước, bất kỳ ai cũng có thể nộp các thông tin về vi phạm nhân quyền đến những chủ thể có thẩm quyền về thủ tục đặc biệt. Chính vì vậy, có nhận xét rằng, “việc gửi những khiếu nại cá nhân theo các thủ tục đặc biệt là một trong những phương thức hữu hiệu nhất để có được sự can thiệp trực tiếp vào các vụ việc đơn lẻ.”36 Tuy nhiên, như đã nêu ở các phần trên, không phải mọi vụ việc đều có thể khiếu nại theo thủ tục đặc biệt. Thông thường, chỉ những vi phạm nhân quyền 36 UNHCHR, Working with the United Nations Human Rights Programme: A Handbook for Civil Society, New York & Geneva, 2008 HỎ I ĐÁP VỀ Q UYỀN CO N N GƯỜ I – 148 – nghiêm trọng hay mang tính phổ biến, trên diện rộng mới được chấp nhận giải quyết theo thủ tục này. Tùy loại quyền bị vi phạm mà cá nhân có thể nộp khiếu nại đến các nhóm công tác (như Nhóm công tác về giam giữ tùy tiện, Nhóm công tác về mất tích cưỡng bức...) hay báo cáo viên đặc biệt (như Báo cáo viên Đặc biệt về tự do tôn giáo, Báo cáo viên đặc biệt về tình hình của những người bảo vệ nhân quyền...). Các cơ chế này không đòi hỏi sự chấp thuận của quốc gia có liên quan. Chẳng hạn, Nhóm công tác về việc giam giữ tùy tiện (Working Group on Arbitrary Detention, cơ quan được thiết lập theo nghị quyết 1991/42 của Ủy ban Nhân quyền, được mở rộng thẩm quyền thêm ba năm theo Nghị quyết 6/4 ngày 28/9/ 2007 Hội đồng Nhân quyền), có thể nhận khiếu nại từ các cá nhân là nạn nhân bị giam giữ tùy tiện hoặc từ người đại diện của họ. Câu hỏi 68 Quan hệ giữa các cơ quan nhân quyền Liên Hợp Quốc và các tổ chức phi chính phủ như thế nào? Trả lời Các cơ quan nhân quyền Liên Hợp Quốc từ lâu đã thiết lập mối quan hệ phối hợp hoạt động với các tổ chức phi chính phủ ở tất cả các cấp độ quốc gia, khu vực và quốc tế. Cơ sở pháp lý cho việc thiết lập mối quan hệ này là Điều 71 Hiến chương Liên Hợp Quốc, trong đó quy định: ʺHội đồng Kinh tế ‐ Xã hội có thẩm quyền thi hành những biện pháp thích hợp để tham khảo ý kiến của các tổ chức phi L UẬT N H ÂN Q U YỀN Q UỐC TẾ – 149 – chính phủ có liên quan đến những vấn đề thuộc thẩm quyền của Hội đồngʺ. Trên cơ sở quy định này, trong Nghị quyết 1296 (XLIV) ngày 23/5/1968, ECOSOC đã thông qua những nguyên tắc cụ thể trong việc thiết lập quan hệ tư vấn với các tổ chức phi chính phủ. Hoạt động tư vấn của các tổ chức phi chính phủ với Liên Hợp Quốc được tiến hành ngay từ những năm đầu thành lập tổ chức này. Tuy nhiên, Nghị quyết 1503 (XLVIII) ngày 27/5/1970 của ECOSOC là cơ sở pháp lý quan trọng nhất cho việc mở rộng hoạt động của các tổ chức phi chính phủ trên lĩnh vực nhân quyền. Theo Nghị quyết đã nêu, các tổ chức phi chính phủ có thể tham gia cơ chế về tiếp nhận và xử lý khiếu tố về các vi phạm nhân quyền (handling communication system) đã nêu ở phần trên. Cụ thể, cơ chế này cho phép các tổ chức phi chính phủ được trình bày hoặc gửi những báo cáo bằng văn bản về các vụ việc vi phạm nhân quyền tới Liên Hợp Quốc. Thêm vào đó, các tổ chức phi chính phủ cũng được tham gia ở mức độ tùy theo vị thế của từng dạng tổ chức vào tiến trình giải quyết các khiếu tố. Về phương thức tư vấn, có hai cách thức chính mà các tổ chức phi chính phủ có thể cung cấp ý kiến tư vấn với các cơ quan nhân quyền Liên Hợp Quốc. Thứ nhất: trình bày ý kiến tại các phiên họp ECOSOC. Thứ hai: gửi các báo cáo, khuyến nghị lên ECOSOC để xem xét và thảo luận trong các cuộc họp của tổ chức này. Tuy nhiên, muốn thực hiện bất kỳ hình thức tư vấn nào, các tổ chức phi chính phủ cũng phải đề nghị với Ủy ban về các tổ chức phi chính phủ của ECOSOC để Ủy ban này tư vấn với Tổng Thư ký sắp HỎ I ĐÁP VỀ Q UYỀN CO N N GƯỜ I – 150 – xếp thành một đề mục trong chương trình nghị sự. Những báo cáo của các tổ chức phi chính phủ có thể được xem xét trực tiếp tại phiên họp toàn thể của ECOSOC, của Hội đồng Nhân quyền Liên Hợp Quốc, hoặc trước đó chuyển cho các ủy ban chức năng của các cơ quan này xem xét. Mặc dù chỉ có vị thế tư vấn, nhưng trên thực tế, các tổ chức phi chính phủ có ảnh hưởng đáng kể trong lĩnh vực nhân quyền bởi lẽ số lượng các tổ chức phi chính phủ rất lớn và ngày càng có xu hướng liên kết thành những mạng lưới mang tính toàn cầu hoặc khu vực. Mặt khác, Liên Hợp Quốc rất coi trọng, khuyến khích sự tham gia của các tổ chức phi chính phủ vào các hoạt động nhân quyền, trên tất cả các cấp độ quốc gia, khu vực và quốc tế, thể hiện ở việc thường xuyên kêu gọi những tổ chức này cung cấp thông tin về tất cả các vấn đề nhân quyền và các tổ chức này thường đáp ứng nhanh chóng và đầy đủ các yêu cầu đó. Có thể thấy hầu như tất cả các văn kiện, chương trình của Liên Hợp Quốc trên lĩnh vực nhân quyền đều được xây dựng và thực hiện với sự tham gia, đóng góp về thông tin và tư vấn của các tổ chức phi chính phủ. Các tổ chức phi chính phủ cũng có vai trò rất quan trọng trong cơ chế giám sát và bảo đảm thực hiện các văn kiện quốc tế về nhân quyền. Như đã đề cập ở trên, HRC kế thừa vị trí của CHR trước đây trong mối quan hệ liên quan đến các tổ chức phi chính phủ về nhân quyền. Tuy nhiên, so với CHR, vị thế và tác động của các tổ chức phi chính phủ về nhân quyền với HRC lớn hơn, do đã có những cải tiến về thủ tục hoạt động của các tổ chức phi chính phủ với HRC, đặc biệt trong việc bầu cử các thành viên của Hội đồng. L UẬT N H ÂN Q U YỀN Q UỐC TẾ – 151 – Câu hỏi 69 Quy trình tham gia và tổ chức thực hiện các điều ước quốc tế về nhân quyền của các quốc gia như thế nào? Trả lời Thông thường, việc tham gia một điều ước nhân quyền quốc tế bắt đầu bằng thủ tục ký (do đại diện của quốc gia tại Liên Hợp Quốc thực hiện). Việc ký chưa phát sinh nghĩa vụ pháp lý ràng buộc với một quốc gia, mà chỉ xác nhận thiện chí của quốc gia đó mong muốn trở thành nước thành viên của điều ước. Sau khi ký, để công ước có hiệu lực ở một quốc gia, nó phải được phê chuẩn bởi nghị viện hoặc người đứng đầu nhà nước (tùy pháp luật của mỗi quốc gia quy định). Trong trường hợp một điều ước quốc tế về nhân quyền đã có hiệu lực trên thế giới, một quốc gia muốn tham gia sẽ không cần ký mà cần làm thủ tục gia nhập. Sau khi phê chuẩn hoặc gia nhập một điều ước quốc tế về nhân quyền, quốc gia thành viên phải tổ chức thực hiện điều ước đó. Việc tổ chức thực hiện thường bắt đầu bằng nội luật hóa ‐ làm hài hòa hệ thống pháp luật quốc gia với các quy định của công ước. Đồng thời, các quốc gia có trách nhiệm tuyên truyền, phổ biến cho công chúng về điều ước. Một số điều ước còn yêu cầu các quốc gia thành viên xây dựng và tổ chức thực hiện các kế hoạch cụ thể, cũng như thành lập các cơ quan chuyên trách để tổ chức và giám sát việc thực hiện các quyền trong điều ước. HỎ I ĐÁP VỀ Q UYỀN CO N N GƯỜ I – 152 – QUY TRÌNH THAM GIA VÀ TỔ CHỨC THỰC HIỆN CÁC ĐIỀU ƯỚC QUỐC TẾ VỀ NHÂN QUYỀN Ở QUỐC GIA L UẬT N H ÂN Q U YỀN Q UỐC TẾ – 153 – Câu hỏi 70 Các tổ chức quốc tế có thể hỗ trợ các quốc gia như thế nào trong việc thực hiện những cam kết quốc tế về nhân quyền? Trả lời Các tổ chức quốc tế (liên chính phủ, phi chính phủ), mà đi đầu là Liên Hợp Quốc, có vai trò to lớn trong việc bảo vệ, thúc đẩy nhân quyền trên thế giới. Các tổ chức này đã và đang thực thi nhiều biện pháp để hỗ trợ các quốc gia trong việc tham gia và thực hiện những điều ước quốc tế về nhân quyền, mà có thể khái quát trong sơ đồ dưới đây. VAI TRÒ CỦA CÁC TỔ CHỨC QUỐC TẾ TRONG VIỆC TRỢ GIÚP CÁC QUỐC GIA THAM GIA VÀ THỰC HIỆN CÁC ĐIỀU ƯỚC QUỐC TẾ VỀ NHÂN QUYỀN HỎ I ĐÁP VỀ Q UYỀN CO N N GƯỜ I – 154 –
File đính kèm:
- tai_lieu_hoi_dap_ve_quyen_con_nguoi_phan_1.pdf