Sự tương thích giữa quy định pháp luật Việt Nam về quyền tự do liên kết của người lao động với hiệp định CPTPP

Ngày 20 tháng 11 năm 2019 Quốc hội đã thông qua Bộ luật lao động năm

2019 cho phép người lao động được tự do thành lập, gia nhập các công đoàn độc lập, tức là

cho phép người lao động được tự do liên kết, thành lập, gia nhập các tổ chức đại diện người

lao động không thuộc Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam – công đoàn duy nhất đại diện cho

người lao động hiện nay. Quy định này góp phần thúc đẩy và nâng cao hiệu quả đại diện, bảo

vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người lao động trong quan hệ lao động, phù hợp với các Công

ước của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO), các cam kết quốc tế trong Hiệp định đối tác toàn

diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP). Tuy nhiên để các quy định này có thể phát

huy được hiệu lực trong thực tế thúc đẩy tiến trình thực hiện các cam kết quốc tế của Việt

Nam cần phải nghiên cứu, đánh giá cá quy định này so với các tiêu chuẩn lao động quốc tế

được dẫn chiếu trong Hiệp định CPTPP

Sự tương thích giữa quy định pháp luật Việt Nam về quyền tự do liên kết của người lao động với hiệp định CPTPP trang 1

Trang 1

Sự tương thích giữa quy định pháp luật Việt Nam về quyền tự do liên kết của người lao động với hiệp định CPTPP trang 2

Trang 2

Sự tương thích giữa quy định pháp luật Việt Nam về quyền tự do liên kết của người lao động với hiệp định CPTPP trang 3

Trang 3

Sự tương thích giữa quy định pháp luật Việt Nam về quyền tự do liên kết của người lao động với hiệp định CPTPP trang 4

Trang 4

Sự tương thích giữa quy định pháp luật Việt Nam về quyền tự do liên kết của người lao động với hiệp định CPTPP trang 5

Trang 5

Sự tương thích giữa quy định pháp luật Việt Nam về quyền tự do liên kết của người lao động với hiệp định CPTPP trang 6

Trang 6

Sự tương thích giữa quy định pháp luật Việt Nam về quyền tự do liên kết của người lao động với hiệp định CPTPP trang 7

Trang 7

Sự tương thích giữa quy định pháp luật Việt Nam về quyền tự do liên kết của người lao động với hiệp định CPTPP trang 8

Trang 8

Sự tương thích giữa quy định pháp luật Việt Nam về quyền tự do liên kết của người lao động với hiệp định CPTPP trang 9

Trang 9

Sự tương thích giữa quy định pháp luật Việt Nam về quyền tự do liên kết của người lao động với hiệp định CPTPP trang 10

Trang 10

pdf 10 trang xuanhieu 1660
Bạn đang xem tài liệu "Sự tương thích giữa quy định pháp luật Việt Nam về quyền tự do liên kết của người lao động với hiệp định CPTPP", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Sự tương thích giữa quy định pháp luật Việt Nam về quyền tự do liên kết của người lao động với hiệp định CPTPP

Sự tương thích giữa quy định pháp luật Việt Nam về quyền tự do liên kết của người lao động với hiệp định CPTPP
ịnh này. 
 925 
 - Về quyền thành lập, gia nhập, tổ chức đại diện người lao động. 
 Bộ luật lao động 2019 quy định tổ chức đại diện người lao động tại cơ sở bao gồm 
công đoàn cơ sở và tổ chức của người lao động tại doanh nghiệp (Khoản 3, Điều 3). Với quy 
định này, thì các tổ chức của người lao động chỉ được phép thành lập trong phạm vi doanh 
nghiệp bao gồm các loại hình doanh nghiệp sau doanh nghiệp tư nhân, công ty cổ phần, công 
ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên, công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên, 
công ty hợp danh (theo Luật doanh nghiệp 2014). Trong khi đó, quan hệ lao động được hình 
thành trên cở sở hợp đồng lao động được xác lập giữa người lao động với người sử dụng lao 
động; người sử dụng lao động ở đây bao gồm doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức, hợp tác xã, hộ 
gia đình, cá nhân có thuê mướn, sử dụng người lao động làm việc cho mình theo thỏa thuận 
(theo khoản 2 Điều 3 Bộ luật lao động 2019). Như vậy, ngoài doanh nghiệp thì quan hệ lao 
động còn có thể được xác lập trong các tổ chức kinh tế khác như hợp tác xã, hộ gia đình, nên 
việc quy định người lao động chỉ được thành lập tổ chức đại diện ngoài công đoàn trong phạm 
vi doanh nghiệp là chưa phù hợp và làm hạn chế quyền tự do liên kết của người lao động. 
 Đây là lần đầu tiên, Việt Nam thừa nhận cho người lao động được quyền thành lập các 
tổ chức đại diện người lao động khác bên cạnh tổ chức Công đoàn, nên các quy định trong Bộ 
luật lao động 2019 mang tính chất nguyên tắc về một số vấn đề lớn về quyền của người lao 
động trong việc thành lập, gia nhập tổ chức đại diện; điều kiện đối với ban lãnh đạo và người 
đứng đầu tổ chức; điều lệ của tổ chức đại diện người lao động tại cơ sở để bảo đảm đáp ứng 
các cam kết quốc tế, các quy định chi tiết vẫn cần Chính Phủ, Bộ Lao động Thương binh và 
Xã hội tiếp tục nghiên cứu và quy định cụ thể hơn như: chức năng của tổ chức của người lao 
động trong doanh nghiệp? Chức năng của tổ chức của người lao động với chức năng của tổ 
chức Công đoàn theo quy định của Hiến pháp 2013 có gì khác nhau? Trình tự, thủ tục đăng 
ký thành lập? Số lượng tối thiểu người lao động của doanh nghiệp trong tổ chức của người lao 
động khi đăng ký? Vấn đề tài chính của tổ chức? Mối quan hệ giữa tổ chức của người lao 
động với tổ chức Công đoànnhư thế nào?  Nếu những vấn đề này không được nghiên cứu, 
giải quyết cụ thể, hợp lý chắc chắn sẽ trở thành rào cản trong quá trình Việt Nam thực thi các 
quy định của Bộ luật Lao động 2019 và các cam kết quốc tế trong CPTPP. 
 Như vậy, khi Bộ Luật Lao động năm 2019 có hiệu lực, người lao động sẽ chính thức 
được thành lập các tổ chức đại diện cho mình, thay vì chỉ được lựa chọn tham gia vào tổ chức 
Công đoàn như lâu nay. Đây quy định quan trọng trong Bộ Luật lao động mới, thể hiện việc 
nội luật hóa các cam kết của Việt Nam trong các Hiệp định thương mại tự do thế hệ mới đã ký 
kết, đặc biệt là Hiệp định CPTPP. Bởi, tôn trọng các công ước cơ bản của ILO là yêu cầu 
trọng tâm của các hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương. Bộ luật 
Lao động sửa đổi 2019 đóng vai trò quan trọng, tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện một 
cách đầy đủ Tuyên bố 1998 của Tổ chức Lao động quốc tế và hướng tới việc gia nhập các 
công ước quốc tế về tiêu chuẩn lao động khác của Việt Nam. Bộ luật lao động đã tạo khung 
pháp lý để phát triển, ổn định quan hệ lao động, đảm bảo công bằng và phát triển bền vững 
kinh tế đất nước. 
 926 
3. Hoàn thiện pháp luật Việt Nam về quyền tự do liên kết của ngƣời lao động trong 
quan hệ lao động 
3.1 Yêu cầu hoàn thiện pháp luật về quyền tự do liên kết của người lao động trong quan hệ 
lao động. 
 Việc thừa nhận, cho phép các tổ chức của người lao động tồn tại song song bên cạnh 
Công đoàn Việt Nam là một vấn đề mới ở Việt Nam. Để có thể phát huy được hiệu quả của sự 
thay đổi này thì cần phải tiếp tục nghiên cứu hoàn thiện chính sách, pháp luật trong thời gian 
tới. Theo đó việc hoàn thiện pháp luật về quyền tự do liên kết của người lao động cần phải 
đáp ứng các yêu cầu sau: 
 Thứ nhất, tiếp tục hoàn thiện pháp luật phù hợp với các tiêu chuẩn lao động quốc tế về 
quyền tự do liên kết trong quan hệ lao động, thúc đẩy việc gia nhập các công ước quốc tế về 
lao động. Mặc dù hiện nay Việt Nam đã phê chuẩn rất nhiều công ước cơ bản, gần đây nhất 
tháng 6/2019 Việt Nam đã phê chuẩn công ước 98 về áp dụng nguyên tắc của quyền tổ chức 
và thương lượng tập thể, tuy nhiên cho đến thời điểm này Việt Nam vẫn chưa phê chuẩn hết 
các công ước quốc tế về quyền cơ bản của người lao động tại nơi làm việc (còn được gọi là 
các tiêu chuẩn lao động quốc tế cơ bản) trong đó có Công ước số 87 về quyền tự do hiệp hội 
và bảo vệ quyền được tổ chức . 
 Thứ hai, hoàn thiện pháp luật về tự do liên kết của người lao động, hướng tới ổn định 
kinh tế, chính trị, xã hội. Khi hoàn thiện pháp luật về quyền tự do công đoàn cần chú ý đến 
các điều kiện kinh tế xã hội và tình hình chính trị của Việt Nam. Pháp luật thừa nhận sự tồn 
tại tổ chức của người lao động bên cạnh Công đoàn nhưng tổ chức của người lao động vẫn 
phải chịu sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam, Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa 
Việt Nam. Mọi hoạt động của các tổ chức đại diện người lao động phải luôn tuân thủ chủ 
trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, thực hiện chức năng của mình theo 
đúng quy định của pháp luật, chịu sự quản lý, giám sát của Nhà nước. Quyền tự do công đoàn 
chỉ phát huy hiệu quả trong thực tiễn khi pháp luật phù hợp với điều kiện kinh tế, xã hội và hệ 
thống chính trị của Việt Nam. 
3.2. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về quyền tự do liên kết của ngƣời 
lao động 
 Thứ nhất, cần khẩn trương ban hành các văn bản hướng dẫn thi hành Bộ luật Lao 
động 2019. Như đã phân tích ở trên, Bộ luật lao động 2019 mới chủ yếu đưa ra các quy định 
mang tính nguyên tắc đối với vấn đề về tổ chức đại diện của người lao động nói chung và tổ 
chức của nguoiwf lao động nói riêng. Chính phủ được Quốc hội trao quyền để quy định chi 
tiết nhiều điều luật trong Bộ luật lao động như các quy định về hồ sơ, trình tự, thủ tục đăng 
ký; thẩm quyền, thủ tục cấp đăng ký, thu hồi đăng ký; quản lý nhà nước đối với vấn đề tài 
chính, tài sản của tổ chức của người lao động tại doanh nghiệp; chia, tách, hợp nhất, sáp nhập, 
giải thể, quyền liên kết của tổ chức của người lao động tại doanh nghiệp; số lượng tối thiểu 
 927 
thành viên là người lao động làm việc tại doanh nghiệp; điều lệ của tổ chức của người lao 
động Vì vậy, để các quy định của Bộ luật lao động, đặc biệt các quy định về tổ chức đại 
diện của người lao động có thể triển khai và áp dụng hiệu quả trong thực tế, thì Chính Phủ, Bộ 
Lao động Thương binh và Xã hội cần sớm nghiên cứu và ban hành các văn bản hướng dẫn thi 
hành chi tiết. Khi ban hành các văn bản hướng dẫn thi hành cần đảm bảo tính đồng bộ giữa 
các quy định về tổ chức đại diện người lao động với các quy định liên quan đến các chế định 
khác trong Bộ luật lao động như chế định việc làm, thương lượng tập thể, giải quyết tranh 
chấp lao động  
 Thứ hai, sửa đổi Luật Công đoàn để đảm bảo sự thống nhất, đồng bộ với Bộ luật lao 
động 2019 và các cam kết quốc tế mà Việt Nam đã tham gia. 
 Luật Công đoàn 2012 được Quốc hội khóa XIII thông qua tại kỳ họp thứ 3, ngày 
20/6/2012 (trên cơ sở sửa đổi, bổ sung Luật Công đoàn 1990) và có hiệu lực thi hành từ ngày 
1/1/2013. 
 Việc Việt Nam ký kết, phê chuẩn và tham gia các hiệp định thương mại tự do thế hệ 
mới trong thời gian gần đây cũng như việc sửa đổi Hiến Pháp 2013, Bộ luật Lao động 2019 
đã có những tác động rất lớn đến tổ chức Công đoàn ở Việt Nam, từ đó đã đặt ra yêu cầu rà 
soát và hoàn thiện khung pháp lý điều chỉnh về Công đoàn và các tổ chức của người lao động 
trong quan hệ lao động ở nước ta. Việc rà soát, hoàn thiện các quy định trong Luật Công đoàn 
cũng góp phần nội luật hóa theo lộ trình phù hợp những điều ước quốc tế mà Việt Nam là 
thành viên. Trong quá trình hoàn thiện Luật Công đoàn cần chú trọng một số vấn đề sau: 
 - Xác định lại phạm vi điều chỉnh của Luật Công đoàn, theo đó cần xác định rõ phạm vi 
điều chỉnh của Luật Công đoàn chỉ trong phạm vi tổ chức công đoàn như hiện nay hay điều chỉnh 
cả các tổ chức đại diện người lao động khác nữa. Trong trường hợp mở rộng phạm vi điều chỉnh 
thì cần thay đổi lại tên của Luật này thành Luật về tổ chức đại diện của người lao động. 
 - Hoàn thiện lại cơ cấu tổ chức Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, theo hướng quy 
định cụ thể vai trò, vị trí của tổ chức công đoàn cơ sở trong bối cảnh mới khi Việt Nam thực 
thi Hiệp định CPTPP; quy định cơ chế bảo đảm thực thi vai trò của tổ chức công đoàn cơ sở 
và tổ chức công đoàn cấp trên trực tiếp cơ sở; quy định về tính độc lập trong hoạt động của tổ 
chức công đoàn cơ sở; quy định rõ mối quan hệ giữa tổ chức công đoàn cơ sở với tổ chức của 
NSDLĐ và NSDLĐ trong QHLĐ; quy định về kết nạp các tổ chức của người lao động vào 
Tổng liên đoàn lao động Việt Nam  
 - Tăng cường chức năng bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động của tổ 
chức Công đoàn tại cơ sở, tránh tập trung quá nhiều vào hoạt động xã hội khác như hiện nay 
để thực hiện đúng chức năng của tổ chức đại diện người lao động, góp phần nâng cao địa vị 
của tổ chức Công đoàn trong lòng người lao động. 
 - Quy định cụ thể cơ chế bảo vệ đối với cán bộ công đoàn, đặc biệt cần xác định rõ cơ 
chế tài chính đối với cán bộ công đoàn, theo đó chi phí cho cán bộ Công đoàn hoạt động phải 
 928 
được lấy từ quỹ công đoàn để chính cán bộ công đoàn có thể tự bảo vệ mình và bảo vệ những 
thành viên khác của tổ chức trước sự bất lợi mà người sử dụng lao động mang lại, từ đó góp 
phần tăng cường hiệu quả hoạt động bảo vệ người lao động, thực hiện các chức năng của 
Công đoàn. 
 Thứ ba, cần tiếp tục rà soát chỉnh sửa quy định của Bộ luật lao động 2019 về quyền tự 
do liên kết của người lao động. Bộ luật Lao động 2019 lần đầu tiên ghi nhận quyền được tự 
do thành lập, gia nhập và hoạt động trong các tổ chức của người lao động khác ngoài tổ chức 
Công đoàn, nên Việt Nam chưa có kinh nghiệm trong việc điều chỉnh mối quan hệ này. Vì 
vậy, các quy định về tổ chức đại diện người lao động vẫn cần được tiếp tục nghiên cứu cả về 
lý luận và thực tiễn và cần được tiếp tục hoàn thiện trong thời gian tới. 
 Bộ luật lao động chỉ đưa ra khái niệm về tổ chức đại diện người lao động tại Khoản 3 
Điều 3 Bộ luật lao động, trong đó ghi nhận tổ chức đại diện người lao động bao gồm Công 
đoàn và tổ chức của người lao động. Công đoàn được định nghĩa rõ theo Hiến pháp 2013 và 
theo quy định của Luật Công đoàn. ―Tổ chức của người lao động‖ là thuật ngữ mới được xuất 
hiện trong Bộ luật lao động nhưng chưa có một định nghĩa cụ thể về nó. Dựa trên tinh thần 
của Bộ luật lao động thì ―tổ chức của người lao động‖ được dùng để chỉ những tổ chức khác 
đại diện cho người lao động mà không phải là tổ chức Công đoàn. Tuy nhiên, nếu xét về nội 
hàm thuật ngữ thì Công đoàn cũng chính là một tổ chức của người lao động. Vì vậy, việc Bộ 
luật lao động sử dụng khái niệm ―tổ chức của người lao động‖ chỉ những tổ chức đại diện 
người lao động khác để phân biệt với tổ chức Công đoàn là chưa phù hợp. Việc sử dụng thuật 
ngữ này cũng dễ tạo ra sự phân biệt đối xử của các cá nhân, tổ chức với hai loại hình tổ chức 
đại diện của người lao động trong thực tiễn áp dụng pháp luật. 
 Các quy định trong Bộ luật lao động 2019 trong chương XIII về tổ chức đại diện của 
người lao động chưa được sắp xếp logic, các vấn đề còn đang đan chéo nên các quy định này 
cần được nghiên cứu và hoàn thiện trong thời gian tới để tạo điều kiện thuận lợi cho việc triển 
khai, áp dụng các quy định này vào trong thực tế. 
 Bên cạnh việc hoàn thiện pháp luật lao động và luật Công đoàn cũng cần xem xét hoàn 
thiện các luật chuyên ngành có liên quan. Tính khả thi của một quy phạm pháp luật không chỉ 
phụ thuộc vào nội dung của quy định đó có phù hợp với thực tiễn hay không mà còn phụ 
thuộc vào sự tương hỗ giữa các quy định có liên quan và khả năng thực thi của các cơ quan, tổ 
chức có thẩm quyền. Việc hoàn thiện quy định về quyền tự do liên kết và thương lượng tập 
thể chỉ đạt hiệu quả khi hoàn thiện các chế định khác của bộ luật Lao động. Hiện nay, nhiều 
chế định của Bộ luật lao động đã được quy định thành một Luật đơn hành như: Luật Việc 
làm, Luật An toàn, vệ sinh lao động. Trong khi đó, các quy định về quyền tự do liên kết và 
thương lượng tập thể có liên quan đến hầu hết các chế định khác nhau điều chỉnh quan hệ lao 
động nên cần phải rà soát chỉnh sửa các văn bản pháp luật khác có liên quan để đảm bảo tính 
đồng bộ của hệ thống pháp luật. 
 929 
 Việc phê chuẩn Hiệp định CPTPP đem lại những thuận lợi và những thách thức đối 
với Việt Nam. Vấn đề bảo đảm quyền lợi của người lao động đang ngày càng được coi trọng 
bởi người lao động là người trực tiếp tạo ra các sản phẩm hàng hóa, dịch vụ nên trước hết họ 
phải là những quan tâm, bảo vệ, bảo đảm những quyền và lợi ích hợp pháp của họ trong quan 
hệ lao động. Hiệp định CPTPP đã đưa ra những cam kết về lao động, trong đó yêu cầu áp 
dụng các tiêu chuẩn lao động của ILO buộc các nước thành viên phải tuân thủ. Đây cũng là 
một thách thức với Việt Nam trong quá trình đổi mới tổ chức hoạt động phù hợp với phát 
triển của kinh tế - xã hội đất nước. Bộ Luật vừa được thông qua ngày 20 tháng 11 năm 2019 
đã có những thay đổi quan trọng trong quan hệ lao động, góp phần cải thiện quan hệ lao động 
ở Việt Nam, tạo nền tảng vững chắc cho hội nhập quốc tế và thương mại công bằng. Các quy 
định trong Bộ luật lao động về tổ chức đại diện người lao động mặc dù vẫn cần được quy định 
chi tiết và cần được tiếp tục nghiên cứu để hoàn thiện hơn, nhưng về cơ bản các quy định này 
đã được thay đổi theo hướng tiếp cận phù hợp hơn với các tiêu chuẩn lao động đã đượsc quốc 
tế công nhận. Đây là nỗ lực không nhỏ của Việt Nam trong quá trình thực hiện các cam kết 
quốc tế mà Việt Nam là thành viên. 
 TÀI LIỆU THAM KHẢO 
 1. Bộ luật Lao động năm 2012. 
 2. Bộ luật Lao động năm 2019 
 3. Công ước 87 năm 1948 Quyền tự do liên kết và quyền được tổ chức. 
 4. Công ước quốc tế các Quyền kinh tế - xã hội và văn hóa năm 1966. 
 5. Công ước quốc tế về các Quyền dân sự và chính trị năm 1966. 
 6. Công ước 98 (1951) về Áp dụng những nguyên tắc của quyền tổ chức và thương 
lượng tập 
 7. Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (Comprehensive 
and Progressive Agreement for Trans-Pacific Partnership - CPTPP) 
 8. Luật Công đoàn 2012. 
 9. Lê Thị Hoài Thu, (2018) ―Hoàn thiện pháp luật về tổ chức đại diện lao động khi 
Việt Nam gia nhập Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương‖ Tạp chí 
Khoa học Đại học Quốc Gia Hà Nội. Tập 34, Số 4 (2018) 32-40 
 10. Trần Thị Mai Loan (2017) ―Hoàn thiện pháp luật về quyền tự do thành lập tổ 
chức đại diện của người lao động‖ 
thien_pl_ve_lao_dong.pdf truy cập ngày 5/2/2020 
 930 

File đính kèm:

  • pdfsu_tuong_thich_giua_quy_dinh_phap_luat_viet_nam_ve_quyen_tu.pdf